Văn học Việt Nam về đề tài chiến tranh - những giá trị và sáng tạo chưa kết thúc

11:04 26/11/2008
HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

Hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam, chống đế quốc Pháp và  Mỹ cùng hai cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và Tây Nam của tổ quốc đã trở thành đề tài và cảm hứng bất tận trong ý thức nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ. Và thực tế, ta đã có một dòng chảy mãnh liệt của văn học Việt Nam về đề tài kháng chiến với  nhiều cách tiếp cận và lý giải chiến tranh và con người trong chiến tranh khác nhau với những thành tựu khác nhau. Vinh dự và niềm tự hào ấy dành cho những nhà văn mặc áo lính qua nhiều thế hệ mà tên tuổi của họ đã đi vào lịch sử văn học với tư cách là những nhà văn chiến sĩ đầy bản lĩnh và tài năng.

Như ta đã từng chứng kiến, chiến tranh ở bất kỳ dân tộc nào khi đi qua, nó nghiễm nhiên trở thành kho tư liệu và ký ức tâm hồn của dân tộc ấy. Vì vậy, nó có sức sống vĩnh cửu trong nhân dân bằng việc các nhà văn tái hiện nó trong tác phẩm với cái nhìn của người trong cuộc, bằng mệnh lệnh của trái tim và sự thôi thúc viết lên sự thật tối đa của ngòi bút. Sự thật chiến tranh và con người trong chiến tranh lại có dịp được đánh thức mọi tiềm lực bằng cái nhìn khách quan, nhân bản với độ lùi cần và đủ của nhà văn trong thời bình. Văn học về chiến tranh sau chiến tranh ở Việt Nam nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và con người bằng một quan niệm thống nhất nhưng đa dạång, có bổ sung những mặt còn bỏ ngỏ mà một thời binh lửa, chúng chưa được thể hiện, vì cần phải như thế.

Toạ đàm Văn học Việt Nam về đề tài chiến tranh do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức là một động thái tích cực và cần thiết để khuấy động không khí học thuật, văn chương về một mảng đề tài đang còn và luôn luôn hấp dẫn trong ý thức và mong mỏi của bạn đọc - những người tiếp nhận có bản lĩnh và tài năng hôm nay.
Ban tổ chức nhận được 15 báo cáo của nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu và nhà văn trong và ngoài tỉnh, từ các trường Đại học ở Huế. Chúng tôi cũng vui mừng nhận được đăng ký phát biểu, thảo luận của nhiều anh chị em văn nghệ sĩ có mặt với tư cách là người trong cuộc, những người đã một thời mặc áo lính, là chứng nhân của 2 cuộc chiến, trở về từ những cánh rừng bom đạn, từ các chiến trường, các mặt trận.

Các báo cáo tập trung nghiên cứu và đề cập ở các chủ điểm như sau:
-  Bàn về thi pháp chung ở quan niệm nghệ thuật về nhân vật, về các cấp độ hình tượng của tác phẩm.
-  Bàn về sự hình thành đội ngũ những người cầm bút, về hành trình văn học chiến tranh, cả trong và ngoài nước.
-  Bàn về từng tác giả, tác phẩm; suy nghĩ về hiện thực chiến tranh và vị thế của nền văn học chiến tranh hôm nay.
Sau đây, chúng tôi xin tổng lược những nét cơ bản của các báo cáo như một biểu thị đồng tình, tuy chưa đầy đủ, về thành công của buổi Toạ đàm.

1. Chủ điểm bàn về những vấn đề chung của văn học chiến tranh, có báo cáo của Hồ Thế Hà với tiêu đề: “Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam viết về chiến tranh sau chiến tranh” đã cắt nghĩa cơ sở xã hội và tư duy nghệ thuật của nhà văn ở việc chiếm lĩnh hiện thực đời sống trong chiến tranh và sau chiến tranh, từ đó, nắm bắt và thể hiện thành quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của mình. Bài viết đi đến nhận định tổng quát “Xuất phát từ cái nhìn biện chứng, nhân bản và đạo đức của người trong cuộc với nhu cầu nhận thức tối đa, cộng với không khí dân chủ hoá trong đời sống xã hội, nhà văn có cảm hứng nói đúng sự thật, nói thẳng vấn đề. Đó là trách nhiệm đối với con người hôm nay và hôm qua, trong đo,á có những người đã vĩnh viễn hoá thân vào lòng đất mẹ... Những gì về cuộc chiến tranh đã qua, đi vào tác phẩm của các nhà văn sau chiến tranh đã chứng tỏ sự ý thức cao độ và trách nhiệm công dân tích cực của từng tác giả trong việc dựng lại đời sống tinh thần của dân tộc, dựng lại chân dung nhân dân, chân dung người lính một cách trọn vẹn và nghệ thuật. Và vì vậy, cũng xúc động nhất, nhân bản nhất trong việc nối liền hiện tại với quá khứ   tương lai cho con người hôm nay và mai sau”.

Nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã nhìn nhận, chiêm nghiệm từ các tác phẩm về đề tài chiến tranh và đặt ra nhu cầu cấp thiết trong bài viết “Đã đến lúc cần có một cách nhìn toàn diện, tôn trọng sự thật”. Bằng việc điểm qua những mặt được và chưa được của văn học về chiến tranh từ trước đến nay, tác giả đã nêu ra một hiện thực như sau: “Mấy chục năm qua, văn học nghệ thuật đã tạo ra được nhiều điển hình về người anh hùng nhưng vẫn còn mắc nợ với nhân dân, vì nếu nhìn thẳng vào sự thật, thì hình tượng người anh hùng chưa có sức lay động mãnh liệt, chưa có sức sống lâu bền trong tâm hồn công chúng”. Từ đó, tác giả bàn đến quan niệm và cách nhìn về chiến tranh, về người anh hùng, về nhu cầu nhận thức tối đa hiện thực thời chiến cả bên ta và bên đối phương một cách toàn vẹn hơn. Có thế, văn học “mới giúp mở rộng chân trời sáng tạo để có những tác phẩm sâu sắc hơn, nhân bản hơn, và như thế, sẽ có giá trị lâu bền hơn”.

Trong cảm hứng nói lên sự thật và khát vọng tái hiện sâu sắc và trách nhiệm về cuộc chiến tranh vừa qua, nhà văn Nguyễn Quang Hà đã khẳng định trong bài viết có tiêu đề “Chúng ta không thể không viết về đề tài chiến tranh”, đặc biệt là viết về vùng đất lửa huyền thoại Trị Thiên, bởi vì đây là vùng trắng anh hùng, là “vùng chiến lược của đầu cầu giới tuyến quân sự tạm thời”. Những ký ức chiến trường ấy đã và sẽ đi vào những trang sách về chiến tranh của anh và đồng nghiệp một cách nhức buốt, vừa như những ký ức sống vừa như huyền thoại -sử- thi- anh hùng ca.

Tại cuộc Toạ đàm này, tác giả Nguyễn Hồng Dũng có bài viết “Chiến tranh Việt trong văn học Mỹ- Từ sự thật đến tác phẩm”. Đây là bài viết tổng quan tiếp cận nền văn học về đề tài chiến tranh Việt của các nhà văn Mỹ- là cựu binh hoặc từng tham gia trực tiếp với nhiều cương vị khác nhau trong cuộc chiến ở Việt . Bài viết đã cắt nghĩa cái gọi là “Hội chứng Việt Nam” mà những cựu binh Mỹ đã ám ảnh và dẫn đến hơn 50% trong số họ bị chấn thương thần kinh vì những tội ác mà họ gây ra đối với nhân dân Việt Nam. Những hội chứng kinh hoàng ấy được họ ghi lại trên giấy trắng, mực đen và những câu trả lời tự thú, sám hối thông thường của họ là: “Cuộc chiến tranh này đã chà đạp lương tri, lẽ phải, nó đã xô đẩy những con người bình thường vào những hoàn cảnh phi lý, và sự điên rồ đã trở thành phản ứng bình thường đối với nó”. Ngoài thơ, ký, truyện ngắn nhiều không kể xiết, tác giả cho biết, chỉ riêng tiểu thuyết Mỹ về chiến tranh Việt lên đến con số trên 500 quyển. Đó là con số có ý nghĩa thông báo giúp ta thấy chính những người lính Mỹ- nhà văn cựu chiến binh luôn “sống trong hối hận và cay đắng, lương tâm bị cắn rứt và mọi giá trị đạo đức đều bị sụp đổ”; ở họ “đều có số phận bi đát, chết mòn vì sự suy sụp thần kinh ngay giữa những người thân”. Tất cả đều tự nhận “Cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt là một cuộc chiến tranh dã man và vô nghĩa”. Văn học về chiến tranh Việt ở Mỹ chính là bài học để “Người Mỹ tìm ra chính bản thân mình” và đồng thời cũng là lời cảnh tỉnh cho mọi cuộc chiến tranh phi nghĩa khác cả hôm qua và hôm nay.

2. Từ góc nhìn và cách lý giải sự hình thành đội ngũ sáng tác, nhà giáo Phạm Phú Phong có bài viết “Kháng chiến qua hồi ức của các nhà văn kháng chiến Bộ”. Bài viết giúp ta thấy được con đường hình thành và đến với văn học của đông đảo công chúng và lực lượng nhà văn cách mạng để trở thành những tên tuổi và tác phẩm lớn, có giá trị càng khẳng định và chứng minh một hiện thực có tính quy luật của cuộc sống lớn cách mạng: “Mỗi người có một điểm xuất phát khác nhau, một cách thức đến với kháng chiến riêng biệt, nhưng ở họ đều có chung một con đường là đến với kháng chiến với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ, với khí thế hào hùng để giải quyết vấn đề số phận từng con người với vận mệnh của dân tộc và sự nghiệp văn chương: Từ thuở mang gươm đi mở cõi - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ).

 Nguyễn Đắc Xuân, bằng vốn ký ức chiến trường của người trong cuộc đã kể lại những câu chuyện đầy xúc động về sự thật bi hùng của nhân dân và người lính để làm nên chiến công mùa xuân 1975. Sự thật ấy phải được làm sống lại trong tác phẩm với tinh thần dũng cảm nói lên sự thật như một sự biết ơn, như lòng ngưỡng mộ và tự hào của nhà văn. Điều ấy, chỉ dành cho những nhà văn dũng cảm và đầy trách nhiệm công dân. Và cũng như cách thế để chống lại sự giả trá, đớn hèn của những người vô đạo đức với quá khứ, với lịch sử trước đây và hiện nay để trở thành kẻ “ăn mày dĩ vãng” .
Nhà văn Hoàng Vũ Thuật góp tiếng nói ở Toạ đàm về chân dung một nhà thơ quen thuộc cuả Huế chúng ta - Nhà thơ Thanh Hải. Anh đã đi ngược hành trình thơ Thanh Hải trong từng thời gian và không gian với từng bài thơ đỉnh, cắm từng cột mốc trong từng chặng đường thơ để phân tích, lý giải, chỉ ra cái hay, cái đẹp và sự chuyển biến về tư tưởng, về hình thức biểu hiện của Thanh Hải, và cuối cùng chỉ ra vị trí của Thanh Hải trong dòng thơ chung của thế hệ những nhà thơ cùng thời: “Thơ Thanh Hải xúc động, như ngọn lửa bùng lên chói sáng, một lời khiêm tốn tự khép lại đời thơ của mình với những trang thơ viết bằng mồ hôi và máu ba mươi năm qua: Một mùa xuân nho nhỏ - Lặng lẽ dâng cho đời - Dù là tuổi hai mươi - Dù là khi tóc bạc”.

Đặc biệt, cuộc toạ đàm đã nhận được truyện ngắn của nhà văn Nhất Lâm viết về chiến tranh có tên Con tắc kè. Tác phẩm nói về một người lính Mỹ ở chiến trường Alưới 1972. Ông về Mỹ và trở lại Việt trong tâm trạng của người có lỗi, nhưng lại được đối xử như một người bạn từ phía Việt . Từ đó, đã làm cho ông càng thấy chủ nghĩa nhân bản tuyệt vời của nhân dân Việt trong và sau chiến tranh. Đó chính là sức mạnh chiến đấu và làm nên chiến thắng kỳ diệu.
Lê Trọng Sâm cũng tham gia toạ đàm với bài viết “Vài cảm nghĩ về văn học đề tài chiến tranh hôm nay” qua đội ngũ những người cầm bút trong 2 cuộc kháng chiến. Sự liên hệ quá khứ của dân tộc để thấy phong cách, tư cách công dân và tư cách nghệ sĩ của nhà văn đã làm cho trang viết của họ trở thành ký ức tâm hồn và bản lĩnh anh hùng của dân tộc Việt .

 Vĩnh Nguyên với tham luận “Văn học Cách mạng không ngừng giải quyết mâu thuẫn” đã đề cập đến những đối lập và phân hoá từ bản thân những người lính trở về sau chiến tranh. Họ tự chọn cho mình một hướng đi không mấy tốt đẹp, mà lẽ ra, với vai trò và tư cách người lính một thời, họ phải xa lánh. Vì vậy, họ phải lặng lẽ đóng vai trò người khác trong “ngày hội hoá trang” giả tạo của chính mình.

3. Bàn về từng tác giả, tác phẩm, có ba bài viết nổi bật của TS. Trần Huyền Sâm, TS. Nguyễn Thành và Thạc sĩ Trần Thanh Hà. Các tác giả chọn 2 tác phẩm tiêu biểu của Bảo Ninh và Chu Lai là Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng để khảo sát và chỉ ra những đặc điểm thi pháp của hai nhà văn này. Trần Huyền Sâm với bài: “Bảo Ninh và nỗi ám ảnh chiến tranh” đề cập đến nội dung nổi trội nhất của tác giả này qua tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Đó là tính chân thật trong và sau chiến tranh mà người lính phải nếm trải và nhận thức trong nhiều trạng thái, hoàn cảnh ở thời bình. Từ đó, bài viết đề cập đến kỹ thuật tiểu thuyết của Bảo Ninh. Đó là biện pháp dòng ý thức, kỹ thuật đồng hiện không- thời gian, lắp ghép kiểu điện ảnh, những tín hiệu thẩm mỹ  mà người đọc phải nắm vững để giải mã và tiếp cận thế giới nghệ thuật của Bảo Ninh ở các lớp hình tượng và cấu trúc chìm của tác phẩm.

Cũng về Nỗi buồn chiến tranh, Trần Thanh Hà tìm hiểu tác phẩm Bảo Ninh ở góc nhìn Hiện thựcVĩnh cửu. Đó là hiện thực chiến trường với nỗi đau buồn của người lính trong và sau chiến tranh, để từ đó, chứng minh cho khát vọng vĩnh cửu của những thế hệ con người Việt Nam hôm nay và tương lai từ bài học xương máu của chiến tranh có tên là nỗi buồn.
Nguyễn Thành, từ góc nhìn so sánh để chỉ ra sự đổi mới trong nghệ thuật của Bảo Ninh và Chu Lai qua hai tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh Ăn mày dĩ vãng. Tác giả nghiên cứu sự tiếp cận chiến tranh từ góc độ phi sử thi của 2 tiểu thuyết này để thấy sự chuyển biến, thay đổi điểm nhìn nghệ thuật của Chu Lai và Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh và thân phận tình yêu trong hai tiểu thuyết được lồng ghép trong các kiểu thời gian nghệ thuật khác nhau để nói lên hiện thực cuộc sống của từng nhân vật người lính trong và sau chiến tranh là cách tiếp cận độc đáo của các nhà văn. Đó là khuynh hướng đảo tuyến, xoá bỏ dần lối kể chuyện theo trình tự thời gian của văn xuôi trung đại, do vậy, tính chất, tâm trạng và tình cảm của nhân vật hiện lên đa dạng, phức cảm và nhức nhối, gấp gáp hơn nhiều, góp phần thể hiện chủ đề và các cung bậc của tâm lý. Tác giả cũng chỉ ra chất thơ, lời văn đa thanh và vai trò của người trần thuật trong hai cuốn tiểu thuyết nói trên.

4. Tham gia toạ đàm, còn có một phần nội dung rất hấp dẫn và sinh động, đó là các ý kiến phát biểu, trao đổi tại chỗ xuất phát từ kinh nghiệm sáng tác và kinh nghiệm nghề nghiệp, kinh nghiệm đời của các anh chị từng là nhà văn ở chiến trường như Tô Nhuận Vỹ, Ngô Minh, Nguyễn Đắc Xuân... Các ý kiến đều tập trung nêu và đề xuất cách tiếp cận chiến tranh và thể hiện con người trong chiến tranh với sự tiếp biến nghệ thuật hiện đại để làm sao những tác phẩm viết về chiến tranh sắp đến sẽ hấp dẫn hơn, chân thật hơn mà cũng nghệ thuật hơn. Và vì vậy, cũng nhân bản hơn đối với từng cá nhân con người hôm qua, hôm nay và mai sau. Đó là mệnh lệnh của trái tim, là sứ mệnh cao cả của nghệ thuật mà lịch sử trao cho các nhà văn chúng ta. 
Huế, ngày 20-12-2005  
H.T.H

(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.