Văn học như là tư duy về cái khả nhiên

11:48 06/06/2008
Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Hễ nói đến văn học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ.

Lí luận văn học ngày nay đã đặt đúng vị trí thẩm mĩ lên hàng đầu, song bản chất nhận thức của văn học vẫn là điều khẳng định. Vấn đề là  cần xác định bản chất ấy như thế nào cho phù hợp với đặc trưng của văn học.
Giải thích nhận thức văn học trực tiếp bằng lí thuyết nhận thức làm nảy sinh quan niệm cho rằng hình tượng văn học với tư cách sản phẩm nhận thức nghệ thuật là sự thống nhất sinh động giữa cái chung với cái riêng, cái cá biệt. Trong điều kiện tối ưu, nhà văn sáng tạo được các nhân vật điển hình, ở đó cái chung rất nổi bật, khái quát, còn cái riêng độc đáo, cá biệt, không lặp lại. Quan niệm ấy tuy có cơ sở nhưng vẫn còn không ít nhược điểm. Nó không cho thấy mối liên quan gắn bó giữa điển hình với lí tưởng và tình cảm, cảm hứng của nhà văn. Nó cũng không giải thích được sự đa dạng của văn học. Bởi vì, nếu tiêu chí nhận thức văn học là cái điển hình thì đối với mỗi loại người trong xã hội chỉ cần sáng tạo được một điển hình là đủ, không nhất thiết cần có nhiều điển hình. Càng nhiều điển hình thì tính điển hình của chúng sẽ giảm sút. Đó là chưa kể có khi cái điển hình được hiểu là cái tất yếu đã được tổng kết, biến văn học thành sáng tác minh hoạ cho lí luận. Gần đây có một số nhà lí luận muốn khắc phục các nhược điểm trên đã đề xướng lí thuyết về phản ánh thẩm mĩ, trong đó sự phản ánh văn học gắn liền với lí tưởng thẩm mĩ và giá trị luận. Nhưng lí thuyết này lại chưa giải thích được cơ chế nội tại của tư duy văn học, tức là mối quan hệ giữa nhận thức và lí tưởng, tưởng tượng cho nên quan niệm này cũng chưa đi xa hơn cách hiểu truyền thống bao nhiêu.
Nghiên cứu bản chất nhận thức của văn học, theo chúng tôi, nhất thiết đòi hỏi phải chỉ ra đối tượng đặc thù của văn học, phải giải thích cái lô gích vì sao nhận thức trong văn học lại cho phép nhà văn hư cấu và gắn liền với lí tưởng thẩm mĩ về cuộc sống cũng như tình cảm chủ quan của chủ thể nhận thức và sáng tạo, những điều mà nhận thức khoa học nói chung không chấp nhận.
Câu trả lời thiết nghĩ, có thể tìm thấy ở gợi ý ban đầu của Aristote từ trong sách Thi pháp học (Nghệ thuật thơ ca) của ông viết cách đây 2300 năm trước công nguyên. Nói về nhiệm vụ của nhà thơ ông viết: “Nhiệm vụ của nhà thơ không phải ở chỗ nói về các sự việc đã thực sự xảy ra, mà là nói về cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay quy luật tất nhiên… Nhà sử học nói về những điều đã xảy ra thực sự, còn nhà thơ thì nói về những gì có thể xảy ra. Vậy nên thơ ca có ý vị triết học và nghiêm chỉnh hơn lịch sử, vì thơ ca nói về cái chung mà lịch sử lại nói về cái cá biệt” (1). Aristote đã nêu ra sự phân biệt rất quan trọng: lịch sử - lĩnh vực của cái đã xảy ra, còn thơ ca (văn học) - lĩnh vực của cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay tất yếu. Sự phân biệt này cho ta thấy hai điểm. Một là không nên hiểu tư tưởng văn học của Aristote một cách giản đơn thô thiển chỉ là sự mô phỏng - bắt chước - sao chép cuộc sống đã có như lâu nay nhiều người vẫn hiểu. Điều này nhà triết học Nga A. F. Losev đã phân tích rõ trong công trình của ông về triết học cổ Hi Lạp(2). Hai là Aristote cho thấy lĩnh vực quan tâm của văn học không phải là hiện thực đã và đang tồn tại, mà là lĩnh vực của những cái có thể xảy ra. Theo chúng tôi, đó là một tư tưởng rất sâu sắc, có thể lấy làm điểm xuất phát để tìm hiểu đặc trưng nhận thức của văn học.
Triết học duy vật biện chứng từ lâu cho thấy, hiện thực và khả năng là một cặp phạm trù của sự thống nhất đối lập, chuyển hoá cho nhau. Từ điển triết học của Rodental chủ biên, viết: “Hiện thực là bất cứ khách thể nào (sự vật, trạng thái, tình huống) đã tồn tại với tính cách là kết quả của một khả năng nào đó”. “Khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển khách quan nằm trong những hiện tượng đang tồn tại”(3). Khả năng tiềm tàng trong hiện thực (tiềm lực), và trong những điều kiện nhất định nó có thể chuyển hoá thành hiện thực, song không thể gọi khả năng là hiện thực, bởi vì cái gì là khả năng thì không phải là hiện thực và ngược lại cũng vậy, cái gì đã là hiện thực thì không còn là khả năng. Như thế, có thể nói, theo Aristote thì văn học không phản ánh hiện thực, mà chỉ là sự tư duy về những khả năng của hiện thực, hoặc nói theo lối đã quen, văn học chỉ phản ánh các khả năng của hiện thực.
Kiến giải của Aristote buộc ta phải suy nghĩ tới phạm trù khả năng trong triết học, và mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với cái khả năng. Mặc dù mọi lĩnh vực kiến thức của con người đều có phần khám phá cái khả năng, song muốn hiểu bản chất của văn học không thể không nghiên cứu nội dung, đặc điểm của phạm trù quan trọng này. Điều đáng tiếc là phạm trù này cho đến nay trong phạm vi triết học thường chưa được phát triển đúng mức phải có. Trong khi nhấn mạnh tới sự thống nhất mâu thuẫn của chúng, người ta phân biệt “khả năng thực tế” với “khả năng trừu tượng” và quan tâm trước hết đến khả năng thực tế, còn khả năng trừu tượng (khả năng hình thức), những khả năng không có điều kiện chuyển hoá thành hiện thực trong thực tế, những khả năng đã mất thì ít có ý nghĩa và dĩ nhiên là không được quan tâm. Như thế, văn học, nhất là văn học hiện thực chủ nghĩa, theo lí thuyết nói trên, chỉ quan tâm đến hiện thực với các khả năng thực tế mà thôi. Thực ra điều đó không hoàn toàn đúng. Đối với nhu cầu sáng tạo và đời sống tinh thần của con người thì cái khả năng là quan trọng nhất, bất kì là khả năng nào. Con người khác con vật ở chỗ biết sáng tạo ra của cải vật chất, biến đổi tự nhiên và biến đổi cả bản thân mình, do đó ngoài thực tại ra, mọi cái khả năng đối với nó đều có ý nghĩa sống còn, bởi có khả năng là có viễn cảnh, có đổi thay, có chân trời. Mọi khả năng của hiện thực, dù là khả năng trừu tượng, thậm chí khả năng khó tin như người lấy tiên, người lấy ma, người chết sống lại… đều có tác dụng mở rộng không gian nhận thức thế giới, nhận thức hiện tại. Nhà triết học Đức M. Haidegger cho rằng thơ sáng tạo tồn tại, thơ nói về cái “vô”. “Vô” không phải là không có gì mà là vô hạn. Vô hạn là trạng thái tự do vượt lên cái hữu hạn, mà trạng thái ấy chỉ có thể có trong thế giới tinh thần. Vì thế theo Haidegger thơ không phải là đồ trang sức bề ngoài, không phải cảm xúc, tình cảm nhất thời, không phải thứ tiêu khiển, mà là một nền tảng được hun đúc của lịch sử. Ông nói con người “tràn đầy thành quả lao động, nhưng vẫn ngự trị trên mặt đất một cách thi vị” (4). Cái thi vị ở đây là sự tồn tại hướng tới cái vô hạn. Hiểu như vậy, cái khả năng đáp ứng được nhu cầu vươn lên cái vô hạn của con người, cho nên nó trở thành đối tượng của văn học.
Thật vậy, nếu hiện thực là sự thực hiện của một trong những khả năng của  hiện thực, thì nó luôn luôn là hữu hạn, còn khả năng là vô hạn. Hiện thực gồm tất cả những cái đang có trong hiện tại hữu hạn. Trái lại khả năng là vô hạn. Bởi cái hiện thực có thể có khả năng là không hiện thực. Cái khả năng cũng có thể là cái không có khả năng. Cái tất yếu cũng có thể không tác động mà bị chi phối bởi cái ngẫu nhiên. Cái hiện thực đã thành quá khứ cũng hàm chứa nhiều khả năng. Đằng sau mỗi cái dĩ nhiên đã thành quá khứ có vô vàn cái khả năng đã không còn cơ hội trở thành hiện thực. Nhưng những khả năng đã mất, không còn hiệu lực thực tế ấy vẫn còn ý nghĩa như là những bài học cho tương lai. Con người vẫn thường nhớ và hối tiếc những việc đã qua. Ấy là hối tiếc những khả năng tốt đẹp đã bị phí hoài, những cơ hội nghìn năm đã ra đi không trở lại. Nhà lí luận văn học Nga Iu. Lotman khi bàn về lịch sử đã  nói rất chí lí: “Lịch sử chỉ là một trong vô vàn con đường có thể đi. Mỗi con đường đã đi đồng thời là một sự đánh mất các con đường khác” (5). Những khả năng đã mất không phải là vô nghĩa đối với cuộc sống con người, chúng vẫn tiếp tục là đề tài bàn luận, suy nghĩ để lựa chọn con đường tối ưu cho cuộc đời. Và bên trong mỗi cái hiện thực đang tồn tại lại có vô vàn khả năng có thể xảy ra mà không phải bao giờ con người cũng nắm bắt được hết. Đồng thời cùng với một khả năng có thể xảy ra lại có vô vàn khả năng đa dạng, đa chiều có thể xảy ra tiếp sau đó. Các khả năng trừu tượng, phi lí cũng không phải là vô nghĩa. Chúng mở rộng tư duy để hiểu những khả năng, giống như cái ảo giúp hiểu thêm cái thực, cái âm giúp hiểu thêm cái dương! Khả năng luôn luôn phong phú hơn hiện thực và chính nó mở rộng không gian cho tư duy, cho lựa chọn và cho phát triển. Trong triết học chúng ta thường đánh giá rất cao cái tất yếu. Lịch sử chỉ phát triển theo cái tất yếu và  theo triết học mác xít, con người chỉ có được tự do khi nhận thức được cái tất yếu ấy. Nhưng khoa học tự nhiên hiện đại đã cho thấy một bức tranh khác. Theo nhà vật lí Prigoring “Các quá trình được dự báo vận động theo các quy luật đã tính trước. Rồi sau đó xuất hiện cái điểm, khi sự vận động đạt đến chỗ không thể dự báo, và đó là chỗ giao nhau của ít nhất là hai, mà thực tế là của vô vàn con đường. Nếu trước đó chúng ta cho rằng có thể tính được xác suất gặp một đường nào đó, nhưng chính ở đó, theo Prigoring, tính xác suất không tác động, mà lại do cái ngẫu nhiên tác động”(6). Nhưng ở đâu có cái ngẫu nhiên tác động thì ở đó có không gian của những cái khả năng mà con người không thể lường trước được.
Khả năng là khuynh hướng, xu thế chuyển biến, vận động, phát triển của hiện thực, là viễn cảnh của tồn tại con người. Con người sẽ ra sao, cuộc sống sẽ ra sao, xã hội sẽ về đâu,… những câu hỏi lớn về hiện tại và tương lai đặt ra từ thời xa xưa mà tôn giáo, triết học và nghệ thuật đều có sứ mệnh trả lời cho mỗi người. Các khả năng, do vậy làm thành đối tượng nhận thức cao nhất của con người. Nhận thức khoa học lịch sử xét cho cùng cũng là nhằm dự báo khả năng cho tương lai.
Nghệ thuật là sáng tạo những thế giới tưởng tượng không có thực, nhằm thể hiện quan niệm nhà văn về cuộc sống, thể hiện những ý nghĩa của hiện thực được nhà văn phát hiện. Tính chất của cái khả nhiên cho phép nghệ thuật có thể tưởng tượng, hư cấu, tạo ra những những thế giới chưa từng có. Các hình tượng văn học kiệt xuất xưa nay, Hămlet, Đôn Kihôtê, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, A Q, Kiều, Chí Phèo, Lão Hạc, Xuân Tóc Đỏ… đều thế. Hiện thực với tư cách là sự thực hiện của những khả năng, nó là sự thật, là vật chất, nó có tính ngoan cố không cho phép ai có thể bóp méo, cắt rời, nhào nặn để sáng tạo nên bất cứ hình tượng nào. Bởi như thế là bóp méo, xuyên tạc thực tế. Khi người ta nói nhào nặn chất liệu của hiện thực để sáng tạo nghệ thuật, thì thực chất là nói về việc nhào nặn chất liệu có tính khả năng, chứ không phải nhào nặn hiện thực như nó vốn có. Chỉ có tính khả năng là cái có tính mềm dẻo, tính co dãn cho phép có thể nhào nặn để làm nên sản phẩm mới bằng hư cấu, tưởng tượng.
Cái khả năng còn cho phép người ta được tự do lựa chọn những yếu tố phù hợp với lí tưởng và thị hiếu thẩm mĩ nhằm thể hiện quan niệm sống của mình. Khả năng khi đang là những khuynh hướng tiềm tàng trong hiện thực, nếu không có con người biết phát hiện ra thì nó vẫn chìm khuất trong thực tế. Khả năng là phương diện dành riêng cho con người tự do phát hiện và gắn liền với tính tích cực tư duy, sáng tạo của nó. Ở đây cái khả năng cho phép thống nhất các hiện tượng đời sống với lí tưởng và sáng tạo, thống nhất cái khả nhiên với cái thẩm mĩ. Do thế cái khả năng mới là đối tượng đặc thù của nhận thức văn học.
Cái khả năng với tính chất của nó có thể tác động đến tư tưởng, tình cảm con người rất mãnh liệt. Chẳng hạn khả năng trừng phạt là một nhân tố ngăn ngừa tội phạm mạnh hơn là sự trừng phạt tàn khốc thực tế. Khả năng về sự khổ cực, nghèo túng, đói kém, bệnh tật, khả năng bị khinh bỉ, chê cười thường làm nảy sinh niềm sợ hãi nhiều hơn là các trạng thái đó trong thực tế.  Sợ hãi là chức năng của cái khả năng đau đớn hay mất mát cũng giống như mong muốn là chức năng của các khả năng hưởng thụ. Nhà lí luận văn học Nga M. Epstein trong Triết học về cái khả năng nhận xét: “Nói chung, nếu chúng ta nhớ lại lịch sử, thì cái khả năng cũng có ảnh hưởng đến hành vi và tình cảm con người không ít hơn cái hiện thực. Cái tiềm năng có sức tác động mạnh mẽ khi nó vẫn là tiềm năng, có thể nói là tác động đến con người một cách “phi hiện thực”. Niềm tin và sự nghi ngờ, niềm khát khao và nỗi sợ hãi, hi vọng và thất vọng, sự dũng cảm và sự hèn nhát, sự thánh thiện và sự điên cuồng và những trạng thái cảm xúc hay đạo đức thường được gợi lên không phải bằng tình trạng thực tế của sự vật mà là bằng cái khả năng của chúng. Đó là khả năng Chúa còn hay là không, khả năng tôi được cứu hay là bị hại.”(7) Cả dân tộc Việt đi vào hai cuộc kháng chiến không cân sức bằng niềm tin vào khả năng chiến thắng chứ không phải chỉ bằng hiện thực khổ đau. Văn học phản ánh sâu sắc cái khả năng chính là do cội nguồn tác động lớn lao của cái khả năng đối với đời sống con người. Dù kết thúc có hậu hay kết thúc bi kịch văn học đều đặt con người đứng trước sự thể nghiệm, suy tư và lựa chọn về khả năng.
Tất nhiên, văn học không giản đơn chỉ là phản ánh các khả năng của hiện thực. Làm như thế văn học sẽ chẳng khác gì chính trị, tương lai học, xã hội học… Mọi người đều biết, tư duy chẳng phải gì khác, mà là hành động xuyên qua hiện thực để tiến đến các khả năng bị che giấu trong đó.  Như thế, chỉ nói đến khả năng là chưa đủ.  Điểm đặc thù của văn học còn là sáng tạo những cái khả nhiên của đời sống. “Cái khả năng” mà Aristote nói đến  trong bản dịch tiếng Việt nêu trên, theo Chu Quang Tiềm, có thể dịch là “cái khả nhiên”, nghĩa là “cái có thể như thế”. Hiện thực tồn tại trong dạng cái dĩ nhiên (cái đã có như thế) và “cái tất nhiên” (cái bắt buộc phải như thế). Chỉ có trong văn học cái khả năng đã chuyển hoá thành cái khả nhiên do nhà văn sáng tạo dưới dạng hình tượng nghệ thuật. Mọi tác phẩm văn học hư cấu - mọi hình tượng nghệ thuật có giá trị của nhân loại xưa nay thực chất đều là những cái khả nhiên như vậy.  Một hình tượng người nông dân (như chị Dậu, anh Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố) hay hình tượng Bác Hồ (chẳng hạn trong thơ Tố Hữu, Minh Huệ, Chế Lan Viên…) đều là những cái khả nhiên trong cảm thụ của tác giả.  Không có cái khả nhiên duy nhất. Hình tượng văn học với tư cách là cái khả nhiên còn giàu tính khả năng hơn nữa,  bởi ở đây còn có tính khả năng của sức tưởng tượng mang  tính cá thể của nhà văn.
Vậy cái khả nhiên văn học có giá trị nhận thức như thế nào? Về mặt này văn học có đặc điểm nhận thức gần gủi với triết học. Nhà triết học Bertrand Russell trong chương Giá trị của triết học trong sách Những vấn đề triết học (1912) đã viết: “Mặc dù triết học không thể nói với ta một cách chắc chắn câu trả lời chân lí đối với các mối nghi ngờ do triết học gợi lên thì nó cũng có thể đề xuất với ta nhiều khả năng, những khả năng ấy mở rộng tư tưởng của ta và giải phóng ta khỏi sự chuyên chế của cái thói quen. Bằng cách đó, trong khi giảm bớt tình cảm tin cậy của ta đối với trạng thái sự vật như chúng đang có, triết học tăng cường mạnh mẽ tri thức của ta về những trạng thái mà chúng có thể xuất hiện…, nó đánh thức sự kinh ngạc của ta bằng cách cho thấy những sự vật quen thuộc qua các bình diện khác lạ. Cần nghiên cứu triết học không phải nhằm để đưa ra các câu trả lời xác định đối với các câu hỏi, bởi vì thông thường, không có câu trả lời xác định nào có thể được coi là chân lí, mà là vì bản thân các câu hỏi, bởi các câu hỏi đó mở rộng quan niệm của ta về những gì có thể có, chúng làm phong phú sức tưởng tượng trí tuệ của ta.”(8) Có thể nghĩ rằng, kiến giải của nhà triết học về triết học cũng hoàn toàn phù hợp với bản chất của văn học. Chúng ta không thể nói một cách chắc chắn hoàn toàn những gì văn học biểu hiện là chân lí, bởi đó là nhận thức của nhà văn trong những hoàn cảnh nhất định dưới hình thức hư cấu với rất nhiều ngẫu nhiên. Nhưng ta có thể nói đó là những cái khả nhiên do tác giả sáng tạo nhằm mở rộng tầm hiểu biết về cuộc sống, giải thoát con người khỏi mọi thói quen trì trệ, mọi cái nhìn bề ngoài, kích thích sự chú ý đến mọi biến dị và đa dạng của cuộc đời. Nhưng đồng thời nhận thức văn học khác xa triết học, bởi nhà văn không chỉ khái quát những khả năng mà còn sáng tạo cái khả nhiên, là cái  có gía trị thẩm mĩ ở chỗ nó gây khoái cảm  cho con người, kích thích và mài sắc không chỉ là tư duy, mà còn mài sắc cảm giác con người về sự đa dạng và khác lạ bất tận của cuộc đời, nuôi dưỡng tình cảm và sự đánh giá có tính nhân văn đối với mọi biến đổi của đời sống. Văn học khác hẳn khoa học vì khoa học chủ yếu nhận thức cái quy luật, cái tất yếu, cái dĩ nhiên của hiện thực dưới hình thức khái niệm, phạm trù, công thức trừu tượng.
Nhìn nhận văn học từ phạm trù cái khả nhiên giúp chúng ta có cơ sở để hiểu chức năng nhận thức đặc thù của nó, nhìn thấy cơ chế bên trong của sự phản ánh thẩm mĩ và do đó có cơ sở đánh giá đúng đắn đối với văn học.

TRẦN ĐÌNH SỬ
(nguồn: TCSH số 231 - 05 - 2008)

------------------
([1]) Aristote. Nghệ thuật thơ ca. Nxb Van học, Hà Nội, 1999, tr. 45.
(2) Losev A. F.Triết học cổ đại Hi Lạp- Platon và Aristote, Nxb. Nghệ thuật, 1969..
(3) Từ điển triết học, Rodental chủ biên, Nxb. Tiến bộ,  Mãtxcơva, 1986, tr.271.
(4) Haidegger tuyển tập, Nxb. Tam Liên, Thượng Hải,1996, tr. 319.Trung văn.
(5) Iu. Lotman. Về bản chất nghệ thuật, trong sách: Iu. Lotman và trường phái  kí hiệu học Tartu – Matxcơva, M., Nxb. Gnozis, 1994, tr. 433. Tiếng Nga.
(6) Iu. Lotman. Tài liệu đã dẫn.
(7) Trang web của Mikhail Epshtein theo địa chỉ: htpt://grani.ru. Tiếng Nga.
(8) Trích theo tài liệu của M. Epstein đã dẫn ở trên.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)