THÍCH CHƠN THIỆN
Tùy bút
Kinh Pháp Cú (Dhammapada), một bản kinh phổ biến nhất trong các nước Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền (Phật giáo thế giới) ghi: “Những người có đủ 36 dòng ái dục, họ mạnh mẽ rong ruỗi theo dục cảnh, người có tâm tà kiến hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi giạt hoài”. (câu 339)
Ảnh: giacngo.vn
Đấy là lời kinh được ghi rõ trong Tăng Chi Bộ Kinh, tập II, PTS, London, 1992, p.225, rằng:
“Có mười tám tư duy bị ám ảnh bởi ái liên hệ đến nội tâm và mười tám tư duy bị ám ảnh bởi ái liên hệ đến ngoại cảnh. Thế nào là mười tám tư duy bị ám ảnh bởi ái liên hệ đến nội tâm? Này các tỳ kheo, khi nào có tư tưởng: “ta có mặt”, thì sẽ có những tư tưởng: “ta có mặt trong đời này”; “ta có mặt như vậy”; “ta có mặt khác như vậy”; “ta không thường hằng”; “ta thường hằng”; “ta phải có mặt không?”; “ta phải có mặt trong đời này không?”; “ta phải có mặt như vậy”; “ta phải có mặt khác như vậy”; “mong rằng ta có mặt trong đời này”; “mong rằng ta có mặt như vậy”; “mong rằng ta có mặt khác như vậy”; “ta sẽ có mặt”; “ta sẽ có mặt trong đời này”; “ta sẽ có mặt như vậy”; “ta sẽ có mặt khác như vậy”.
Và này các tỳ kheo, thế nào là mười tám tư duy bị ám ảnh bởi ái liên hệ đến ngoại cảnh? Khi nào có tư tưởng: do cái này ta có mặt, thì sẽ có các tư tưởng:
- “Do cái này ta có mặt trong đời này…”
- “Do cái này ta phải có mặt…”
- “Do cái này mong rằng ta sẽ có mặt…”
- “Do cái này ta sẽ có mặt…”
Những ý niệm tôi là, tôi đã là, tôi sẽ là, tôi phải là, mong rằng tôi là… sản sinh ra 36 dòng ái trên. Quá khứ có 36, hiện tại có 36, vị lai có 36, vị chi là 108 dòng ái. Chính từ ý niệm hữu ngã “tôi là” mà khởi lên tham lam, sân hận, si mê, và sợ hãi là những nhân tố gây ra những rối loạn, phiền não tâm lý của các cá nhân và xã hội. Ở đây hiện rõ: văn hóa ở đời - của các học thuyết tông giáo khác với Phật giáo - là văn hóa của “tôi là”, hay gọi là văn hóa của “I doctrine”; văn hóa của Phật giáo là văn hóa của vắng mặt ý niệm “tôi là”, hay là văn hóa của vô ngã (Non I doctrine). Chính văn hóa vô ngã này đã được biểu tượng hóa thành chuỗi hạt 18 hạt, 36 hạt, 54 hạt, hay 108 hạt mà các nhà sư Phật giáo ở các nước Phật giáo Trung Hoa, Mông Cổ, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam - và cả Miến Điện thuộc Phật giáo Nam truyền - thường nắm ở tay hay đeo vào cổ. Các nhà sư, từ thế hệ này qua thế hệ khác đã không mệt mỏi giới thiệu với đời nền văn hóa Phật giáo vô ngã, một nền văn hóa của hòa bình, an lạc, đi ra khỏi hết thảy phiền não khổ đau, đi ra khỏi các hận thù, chiến tranh. Cũng có thể nói rằng đời là “tôi là”; đạo là “không tôi là”. Giản dị là ở đó, mà huyền bí cũng ở đó.
T.C.T
(SH280/6-12)
VĨNH NGUYÊNTrước mặt tôi là thăm thẳm sâu hút chập chùng xanh đến rợn người mà thích thú làm sao! Hồ Truồi trong vắt dưới chân như ta có thể rơi tòm xuống đó nếu không may để sẩy bước hụt. Và, sau lưng tôi là chót đỉnh Bạch Mã gần kề như chỉ còn một tầm tay với. Nơi đây, mang cái tên lộng lẫy: Vọng Hải Đài!
NGUYỄN VĂN DŨNGTôi không tin rằng một cô gái đẹp thì lúc nào cũng đẹp. Sông Hương cũng thế. Sông Hương là quà tặng ưu ái của Thượng đế dành cho kẻ phàm trần.
NGUYỄN HỮU THÔNGĐêm thêm như một dòng sữa.Lũ chúng em, âm thầm rủ nhau ra trước nhà.Đêm thơm, không phải từ hoa,Mà bởi lòng ta thiết tha tình yêu thái hòa.Đời vui như men sayNgọt lên cây trái..
NGUYỄN XUÂN TÙNGSống lạc quan yêu đời, luôn luôn làm chủ được những suy nghĩ, tình cảm và hành động để tự thắng mình trong mọi hoàn cảnh là một phẩm chất cao đẹp của Bác Hồ.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGỞ Huế hình như không có mùa thu, mùa thu chỉ ghé lại thành phố giữa một mùa nào đó, mùa hè chói chang hay mùa đông rét mướt. Vì thế, bao giờ người ta cũng đón chào mùa thu bằng nỗi vui mừng đến với một người thân đi xa mới về để lại vội vã ra đi, bằng một cái mà nhạc sĩ tiền chiến Đặng Thế Phong gọi là “Con thuyền không bến”. Trên sông Hương, hình như thường có nỗi bơ vơ chờ sẵn những tâm hồn lãng tử quen xa nhà từ vạn cổ.
TRẦN THÙY MAI“Khuôn mặt em đâu phải chữ điền, Trúc không che ngang mà che nghiêng”
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCái tin anh Phương mất đột ngột đến với tôi lúc 11 giờ đêm, qua giọng rã rời nghẹn ngào của nhà thơ Lương Ngọc An báo Văn nghệ, lúc tôi đang “dùi mài kinh sử” ở khu ký túc xá trường Đại học Y Hà Nội để lấy cho xong cái bằng Thạc sỹ.
Hành trìnhĐã từ lâu tôi cứ muốn đi núi Tuý Vân để tìm hiểu xem sao nó được vua Thiệu Trị liệt vào hàng thứ 9 trong “Thần kinh nhị thập cảnh”.
Trước năm 1945, mỗi lần đi qua Ái Tử, tôi không khỏi lo sợ… Một sự lo sợ mơ hồ. Còn vì sao mà sợ thì cũng chẳng biết.
Ngay lần đầu tiên gặp ông đã đầy kỷ niệm. Đại đội tôi giao quân bên bờ một con suối đẹp cách sông Hương không bao xa. Anh Nguyễn Châu trưởng ban quân lực Thành đội nhận quân xong, ông đến bắt tay từng người.
Tôi vừa đến vùng Bắc Tây Nguyên được mấy hôm thì gặp địch càn quét. Hôm đó tôi định vào cơ quan xã Đaktô để làm việc không ngờ gặp địch dọc đường, tôi tạt vào rừng và nhắm hướng trở lại đơn vị, nhưng càng đi càng lạc sâu vào rừng thẳm.
Rời Bắc Hải chúng tôi bảo nhau từ giờ trở đi sẽ chỉ ở khách sạn chứ ở nhà người quen có cái vui nhưng cũng gây phiền toái cho bạn bởi chúng tôi đi chơi bất tử chẳng có giờ giấc nhất định nào.
Có một lão ngư kiêm lão nông suốt mấy chục năm trời vắt mồ hôi thành muối, tưới mồ hôi thành sông hồ mà mảnh vườn nhà vẫn cằn khô, chiếc thuyền nhà vẫn không tanh mùi cá biển. Quang cảnh vườn nhà cứ một mùa xanh lại ba mùa rụng lá, khô cành. Vợ chồng con cái chỉ thấy mắt chẳng thấy mồm. Xung quanh hàng xóm cũng chung hoàn cảnh.
Đấy là vào khoảng cuối chiến dịch Điện Biên Phủ – 1954. Đơn vị chúng tôi (đại đội 410 – đội 40 – TNXP Trung ương) được điều đi nhận nhiệm vụ mới.
1. Cô bạn cùng cơ quan nghe nói tôi “có tay nuôi người”, lại quen biết giao du rộng rãi nên có ý nhờ tìm một người giúp việc nhà cho vợ chồng cô em gái.