Vấn đề thẩm định văn học nghệ thuật và ý niệm "nhạc vàng"

16:26 08/09/2014

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Đã có một thời chúng ta coi "Thơ Mới" (1930 - 1945) là thơ lãng mạn tiểu tư sản bi quan tiêu cực, coi những tác phẩm văn xuôi xuất sắc của Vũ Trọng Phụng là văn tự nhiên chủ nghĩa, là văn đồi trụy, dâm ô, sa đọa, coi những tác phẩm văn học viết về bi kịch, đau thương, mất mát của con người mới là bôi đen chế độ, là không lành mạnh.

Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo - Ảnh: internet

Ai khen những tác phẩm ấy tức là kẻ phạm tội. Cái thời ấy đã kéo dài không ngắn hơn bốn chục năm. Mãi cho đến gần đây, quan niệm thô thiển, chụp mũ này mới bắt đầu được thay đổi, các giá trị đích thực của chúng mới dần dần được thẩm định lại. Nhiều tác phẩm có giá trị đã lần lượt được tái bản trước sự chào đón hâm mộ của đông đảo bạn đọc trong nước và nước ngoài.

Đã có một thời chúng ta chống các họa sĩ cách mạng vẽ tranh "nuy", tranh "nửa nuy", hoặc mô tả hiện thực cuộc sống bằng những bút pháp tượng trưng hay lập thể v.v... Ngay trong kháng chiến chống pháp, những cuộc tranh luận nảy lửa về hội họa đã xảy ra, và rốt cuộc là các họa sĩ phải tuân theo ý kiến kết luận của người có quyền lực nào đó. Kết quả là nghệ thuật tạo hình của chúng ta đơn điệu và nghèo nàn đi rất nhiều. Nếu không có tư tưởng đổi mới như vừa qua, làm sao tranh Nguyễn Sáng, tranh Nguyễn Tư Nghiêm, tranh Bửu Chỉ có cơ may được trưng bày và được đánh giá cao giữa thủ đô Hà Nội như chúng ta đã biết.

Việc thẩm định âm nhạc gần bốn chục năm qua cũng nằm trong tình trạng chung ấy. Có những tác phẩm âm nhạc trước cách mạng tháng Tám từng nâng bổng tâm hồn nhiều thanh niên, sinh viên cầm súng gia nhập quân đội đi kháng chiến chống Pháp, để rồi sau đó, hai tâm hồn đồng điệu ấy (bản nhạc và người lính) buộc phải đoạn tuyệt nhau! Ngay cả một số bản tình ca của thời bình trên miền Bắc, vừa hòa nhập vào lòng người cũng không hiểu vì đâu bỗng dưng phải dứt áo chia tay. "Bài ca thủy thủ" là một ví dụ:

"Nhổ neo ra khơi đêm nay khi trăng mọc, thuyền anh sẽ nhổ neo ra khơi. Tạm biệt em yêu vẫy chào thành phố cảng thân yêu. Em ơi chớ hỏi anh nhiều. Cũng đừng hỏi vì sao anh ra đi..."

Âm nhạc và lời ca thật đẹp. Nhưng tại sao lại "đừng hỏi vì sao anh ra đi?" phải biết vì sao người thủy thủ ra đi chứ! - Một nhà phê bình hay một đồng chí "có trách nhiệm" nào đó bỗng phán hùng hồn lên như vậy, thế là đi đời cái bài tình ca của những người thủy thủ!

Ngót nửa thế kỷ qua, nhiều bản nhạc của chúng ta vì lý do này hay lý do khác đã phải chịu số phận cay đắng như thế. Mà nào chỉ là nhạc của chúng ta, nhạc Bet-thô-ven, nhạc Mô-da và cũng đã có khi bị cơ quan văn hóa phường, xã thu hồi tống vào kho "văn hóa đồi trụy". Tuy nhiên, nhạc có lời vẫn dễ bị kết tội hơn, mà kết tội thật đanh thép: "Nhạc vàng"!

Trong lịch sử âm nhạc thế giới không hề thấy nói đến từ "nhạc vàng". Cái tên gọi đó chỉ thấy xuất hiện ở nước ta, hay nói đúng hơn là ở chế độ ta, hơn ba chục năm nay. Gần đây, có người phát hiện là nó bắt nguồn từ Trung Quốc, nhưng cũng không thấy dẫn ra một cứ liệu nào xác thực. Thôi thì nó của Trung Quốc hay của ta, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là, hơn ba chục năm qua, trong sinh hoạt âm nhạc của ta đã hình thành một quan niệm về "nhạc vàng". Vì là mới hình thành nên nó chưa được xác định đầy đủ. Dĩ nhiên là nó phải khác với "nhạc xanh", "nhạc đỏ". (Lại những thuật ngữ nghe khá lạ tai). Ở đây ta không bàn về hai thuật ngữ mới này, nhưng nếu "nhạc đỏ" là nhạc hùng mạnh, nhạc chiến đấu, "nhạc xanh" là nhạc êm ái du dương, thì "nhạc vàng" hẳn là nhạc đồi trụy phản động rồi.

Mới đây có người cho rằng, đối tượng phản ánh của "nhạc vàng" là "cái tôi thất vọng, bi quan"; hình thức thể hiện phổ biến là ca khúc trữ tình, tránh dùng quãng rộng, quãng xa, thường dùng thủ pháp mô tiến và tái hiện, ít dùng những tiết tấu xáo động như loại nhạc tiết tấu hóa sau này, dùng đúng công năng và công năng cũng là giới hạn... Còn về biểu diễn thì thường dùng giọng nữ pha chất nũng nịu, mơn trớn, hoặc chán chường ủ ê. Và họ chứng minh rằng, đấy là sản phẩm văn hóa Mỹ-ngụy ở miền Nam nước ta. (Theo Dương Viết Á - tạp chí Âm nhạc số 6-1986).

Như chúng ta đã biết, âm nhạc tiết tấu ở phương Tây ba chục năm qua, có các nhóm nổi tiếng điên loạn như nhóm Máy tình dục (Sex Machiners), nhóm Hành vi xấu xa (Bad Manners), nhóm Khỉ (Monkeys), hay nhóm Bà mẹ của các sáng chế (Mother of inventions) trâng tráo mở đầu chương trình bằng lời chào khán giả: "Thế nào, hỡi các con lợn!" họ hát cả nhạc rên rỉ lẫn nhạc áp-phích kích động lôi cuốn hàng triệu công chúng. Và đây là một quan niệm của nữ ca sĩ Jani Joplin: "Khi tôi hát, tôi thấy như mình làm tình đến cao điểm". Âm nhạc như vậy, đích thực là âm nhạc đồi trụy, phản động rồi. Vậy có thể gọi nó là "nhạc vàng" được không?

Nếu theo định nghĩa trên thì nó không thuộc vào loại "nhạc vàng" của chúng ta.

Thế thì nên gọi nó là nhạc màu gì cho thích hợp? Thật là rắc rối!

Nhưng rắc rối hơn là cái từ "nhạc vàng" lâu nay đã làm cho chúng ta không ít nhầm lẫn trong việc thẩm định các giá trị âm nhạc trong nước. Mấy chục năm qua, dân tộc ta phải đương đầu với mấy cuộc chiến tranh liên tiếp phải nói là rất lớn, rất trường kỳ. Âm nhạc cách mạng của chúng ta đã trưởng thành trong việc phản ánh hiện thực hào hùng ấy của dân tộc. Đây là những bản nhạc tràn đầy lạc quan cách mạng, hùng mạnh, hừng hực tinh thần chiến đấu. Có lúc âm nhạc không chỉ là hát lên, mà còn thét lên: "Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng... Cầm gươm ôm súng xông tới", hoặc "Không cho chúng nó thoát - chúng bay vào sẽ không có đường ra" v.v... Ngay cả khi ôm người yêu, nhà thơ cũng không có quyền được quên khẩu súng trên vai người yêu: "Anh ôm em, ôm cả khẩu súng trường ngang vai em". Văn nghệ động viên chiến đấu thật đắc lực, phải gác lại những vui buồn riêng tư. Ai không "gác lại" được thì bị tổ chức phê bình. Tác phẩm văn nghệ nào đượm chút riêng tư ấy khó tránh khỏi sự chỉ trích, phê phán. Thế là xuất hiện tâm lý sợ hãi thậm chí khinh bỉ những nỗi niềm riêng không phù hợp với cuộc chiến đấu vĩ đại. Cái tâm lý ấy tưởng chỉ tạm thời trong chiến tranh, nhưng thực ra nó vẫn ám ảnh chúng ta cả trong hòa bình. Khi nghe những âm thanh êm ái chia sẻ buồn thương cùng con người, thức dậy những kỷ niệm yên bình tươi đẹp của con người, dường như chúng ta vẫn bị cái tâm lý sợ sệt hoài nghi kia ám ảnh, bởi vì không thấy chúng "hừng hực lửa chiến đấu"! Nhạc vàng đấy, coi chừng! Tiểu tư sản đấy, coi chừng! Nhạc tiền chiến đấy, coi chừng! Nhạc thời Mỹ ngụy đấy, coi chừng!... Biết bao nhiêu sợi dây "coi chừng" như thế đã trói buộc sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Trên bàn ăn của công chúng, cũng vì thế mà các món ăn tinh thần dường như vẫn thiếu đi mấy món gì đó.

Chính vì thế mà công chúng thành phố Hồ Chí Minh đã tràn vào "Đêm nhạc Văn Cao" để được nghe lại Thiên Thai, Trương Chi, Bến Xuân, Buồn tàn thu bên cạnh những bài hát cách mạng của ông. Cũng chính vì có một phần nhạc tiền chiến của Văn Cao mà đêm nhạc mừng thọ sáu mươi của ông tại Hội nhạc sĩ Việt Nam năm 1983 bỗng mang thêm một ý nghĩa mới. Cái mũ "nhạc vàng" chụp lên những ca khúc tiền chiến của ông đã được nhấc đi, để lộ ra mái đầu xanh say đắm của tuổi hai mươi Văn Cao.

Còn bao nhiêu "mái đầu xanh" chưa được cất mũ "nhạc vàng"?

Nghị quyết riêng về văn hóa văn nghệ của Bộ chính trị đã chỉ rõ rằng: "Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động (chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hòa bình), không đồi trụy (truyền bá tội ác, sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền được lưu hành và đặt dưới sự đánh giá phán xét của công luận và của sự phê bình".

Tuy nhiên, thực hiện được điều đó không đơn giản dễ dàng. Đồng chí Trần Độ nhấn mạnh rằng: "cần phải thay đổi nhiều nếp nghĩ thô thiển đã hằn sâu từ lâu đời trong đầu óc nhiều người, phải khắc phục một cách vất vả những sức mạnh của sự bảo thủ, trì trệ... Phải xây dựng nhiều quan niệm mới trong cả các hoạt động sáng tạo và cả trong sự hưởng thụ và thưởng thức của công chúng rộng rãi..." Với tinh thần ấy, thiết nghĩ trong âm nhạc, quan niệm "nhạc vàng" hơn ba chục năm qua, nay cũng cần được xem xét lại. Nhìn từ một góc độ nào đó, nó đã phủ lên cái nhìn âm nhạc của chúng ta một màu hoàng hôn tranh tối tranh sáng, dễ nhầm lẫn các giá trị thực của hình ảnh vốn có. Hơn nữa, nhìn rộng ra các trào lưu âm nhạc suy đồi và phản động đang tràn ngập ở phương Tây hiện nay, thì thuật ngữ "nhạc vàng" chỉ loại âm nhạc bi quan là quá hạn hẹp. Vả lại ở ta, đọc Truyện Kiều ai mà không nhớ hai chữ "nhạc vàng" với ý nghĩa thật đẹp mà Nguyễn Du đã dành để tả tiếng nhạc ngựa của chàng Kim trước lúc gặp nàng Kiều: "Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần"? Bởi những lý do như đã nói ở trên, tôi đề nghị chúng ta nên đưa hai chữ "nhạc vàng" - một khái niệm âm nhạc không bình thường - ra khỏi các sinh hoạt âm nhạc ở ta, và hãy gọi đúng tên của loại âm nhạc mà chúng ta không chấp nhận được là "nhạc đồi trụy, phản động".

Với tinh thần đổi mới hiện nay, Đêm nhạc ngược dòng thời gian trở lại với một số ca khúc chủ yếu là thời tiền chiến do Hội văn nghệ Bình Trị Thiên tổ chức vừa qua là một biểu hiện của sự trăn trở nghĩ suy mới. Dĩ nhiên, chúng ta không ngây thơ đem các "mốt" quần áo hiện đại của ngày nay để so sánh với những bộ quần áo sang trọng của thời trước. Chúng ta đánh giá các tác phẩm văn nghệ trong hoàn cảnh lịch sử của nó. Hát những bài hát cũ, nhưng đây là một hành động mới. Tôi ủng hộ những hành động mới vì một nền văn nghệ thực sự của nước nhà, vì sự tốt đẹp của con người.

Huế 12-1-1988
N.T.T.
(Bài phát biểu trong cuộc tọa đàm "NHẠC VÀNG" tại Hội văn nghệ Bình Trị Thiên đầu năm 1988)
(SH31/06-88)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.

  • VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.

  • MẶC HY                Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."

  • MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.

  • NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.

  • MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.

  • NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.

  • NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.

  • VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.

  • PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.

  • LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.

  • Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.

  • DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006

  • HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!

  • NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).