Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
Dương Đức dịch và giới thiệu
Ảnh: internet
Ván cờ
RICARDO LÍSIAS
Phần cơ bản của thời niên thiếu của tôi biến mất vào tuần áp chót. Thầy dạy môn cờ của tôi không lên lớp. Vì vậy, tôi men tới quán cà phê nơi chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau suốt năm năm qua; tôi lấy bàn và ngồi chờ. Đó là lần đầu tiên thầy trễ giờ như vậy. Những người chơi cờ vốn rất khắt khe về thời gian: thua một ván đấu vì hết giờ thường là kinh nghiệm đau đớn còn hơn bị chiếu tướng thua.
Tôi chưa học chơi cờ vua với ai khác. Chính thầy là người dạy tôi theo dõi thời gian. Khi đó tôi mười hai tuổi, được xem như một tài năng xuất sắc của Brazil trong làng cờ thiếu niên và tôi phải đối mặt với giải đấu quan trọng đầu tiên, với đồng hồ tính giờ trận đấu cùng các thứ khác. Một năm trước, mẹ tôi đã theo lời khuyên của ông tôi, người đã không còn đánh bại đứa cháu của mình, tìm cho tôi một người thầy.
Chỉ bây giờ tôi mới thấy sự trùng hợp đó. Chính xác cách đây một tháng tôi gián đoạn việc học cờ vì ông nội tôi qua đời làm tôi không còn chút tâm trí nào nghĩ tới học tập. Tuy vậy, thầy tôi đảm bảo là tôi vẫn đủ sức để tiếp tục luyện tập. Trò mất một quãng thời gian như vậy, Ricardo, trò hoàn toàn biết rõ phải lập tức tập trung trở lại. Còn bây giờ thì chính thầy biến mất. Vậy là đã gần 30 năm kể từ lúc tôi học bài vỡ lòng với thầy.
Sau thời gian gián đoạn ngắn, tôi hỏi có thể tiếp tục việc học bằng cách nghiên cứu những trận đấu đã diễn ra hay không - những cuộc tấn công bất ngờ mà ông tôi rất ưa thích. Đó là thứ duy nhất mà ông tôi nắm rõ trong trận cờ. Khi đó tôi đã học cách vô hiệu hóa kiểu thí quân như điên mà ông hay sử dụng để không bao giờ thua ông nữa. Ông và cháu trở nên xa cách hơn một chút vì tôi tăng cường theo học ở trung tâm để biết thế cờ tránh sự tấn công từ hai cánh.
Buổi học thường kéo dài một giờ rưỡi. Thời gian tôi đợi ở quán cà phê cũng bằng chừng ấy. Rồi tôi gọi điện thoại để tìm kiếm thầy nhưng cuộc gọi không thông suốt. Lúc đó vẫn có chút thời gian trước khi đi đón con ở nhà trẻ, tôi quyết định dừng lại bên tòa nhà nơi thầy tôi ở đó lúc tôi và thầy biết nhau.
“Vào tuần trước, mẹ của anh ấy cùng đi với một số người đàn ông khác đến đây và đã đưa anh ấy đi.”
“Nhưng bà ấy có để lại thông tin nào không vậy?”
“Tôi chỉ biết chừng đó.”
Tôi để lại số điện thoại của tôi ở quầy lễ tân và yêu cầu nhân viên phục vụ gọi cho tôi nếu biết thêm thông tin về ông. Đêm đó, tôi liên lạc với những bạn chơi cờ. Không ai nghe thấy bất cứ điều gì.
![]() |
Minh họa: Tô Trần Bích Thúy |
*
Lúc đầu, thầy tôi đến nhà tôi. Đó là thời điểm tôi mong đợi nhất mỗi tuần. Tôi dành khoảng sáu tuần chỉ để học các nguyên tắc cơ bản. Ricardo, này, đẩy các quân của trò vào góc, trò đang khiếp sợ rồi. Sau đó, tôi bắt đầu xuất hiện tại một vài giải cờ thiếu niên. Ngày đó là vào năm 1986, tôi nghĩ: trong những ngày đó, không giống như ngày hôm nay, rất ít trẻ em chơi trong các giải thi đấu. Hầu hết được chuẩn bị kém và chỉ nhằm để thực hiện mong muốn của cha mẹ mình. Tôi dễ dàng đánh bại tất cả.
Khi tôi lên mười hai, mẹ tôi bắt đầu đưa tôi tới câu lạc bộ cờ vua. Việc học của tôi được chuyển đến đó. Đó là nơi thầy tôi yêu mến nhất trên thế giới này. Lúc đầu, tôi không thích nó. Nó hoàn toàn tối tăm, và cứ vào lúc 3:00 mỗi buổi chiều thứ tư nó như bị bỏ hoang. Khoảng chạng vạng mọi người bắt đầu đến. Đó là lần mẹ tôi đưa tôi đi. Rõ mồn một, bà đã nhận thấy những loại người nào thường xuyên lui tới chỗ như vậy ở trung tâm thành phố São Paulo.
Tuy nhiên, dần dần, tôi đã bắt đầu giành được sự tự do của mình. Mẹ tôi hoàn toàn tin tưởng vào thầy tôi. Ông hứa sẽ để tôi đi tàu điện ngầm khi tôi đã chơi đôi chút với những người luyện tập tại câu lạc bộ. Lần đầu tiên tôi về nhà muộn, bà hăm dọa không bao giờ để cho tôi đi một mình nữa. Tôi đã đủ tự tin để trả lời lại. Và tôi đã kết thúc khóa học được xếp hạng nhì trong độ tuổi dưới 14 ở Brazil. Tôi xuất hiện trên mặt báo, ông nội tôi hết sức tự hào.
Khi lớn hơn, tôi cần ở lại câu lạc bộ thêm để chơi cờ. Lúc đó tôi vẫn là người trẻ nhất nên thầy tôi chăm sóc tôi. Dù sao, môi trường xung quanh không phải là kẻ thù địch. Cho dù nó cũng đầy người lạ trong thành phố, họ chỉ đến đây để chơi cờ. Câu lạc bộ có cho nhiều người xa xứ từ châu Âu đến ở; những học sinh phổ thông trung học họ nghĩ là họ tuyệt vời nhưng chắc chắn đã chấm hết vì cuối cùng không tìm được bạn gái cho mình; rồi có những người độc thân và các chuyên gia, nhiều người trong số họ vất vả để tìm đủ tiền ăn bữa tối cũng như buổi trưa hôm sau.
Thời gian ở câu lạc bộ cờ, với môi trường hoang dã bản địa, đánh dấu sự bắt đầu thời thanh niên của tôi: sáng học tập, thời gian còn lại chơi cờ. Khoảng trống giữa chừng tôi đọc lại các quyển tiểu thuyết đã xem qua ở nhà.
Có tám người trong chúng tôi tìm kiếm thầy tôi. Không có ai tìm thấy thông tin nào. Hôm qua, trong một giải đấu, J. đưa ra ý tưởng độc đáo, cho đến nay, có vẻ hợp lí: tìm mẹ của thầy. Chúng tôi đã gọi điện cho tất cả các bệnh viện trong thành phố São Paulo; F. lục tìm trong hồ sơ của cảnh sát và nhà xác, thậm chí một số nghĩa trang cũng nhận cuộc gọi của chúng tôi. Không ai biết chút gì cả.
Tôi nhận ra là tôi không biết ngay cả tên cha mẹ của người tôi đã thân quen lâu hơn bất kỳ ai khác, ngoại trừ tên cha mẹ của mình. Chỉ lần đó, cách đây nhiều năm, tôi giáp mặt mẹ ông ở ngoài phố. Trùng hợp ngẫu nhiên: bọn tôi đang đi tới quán bar để chúc mừng kết quả thành công của một giải thi đấu và bà đang từ rạp chiếu bóng ra. Bà chào chúng tôi từ xa rồi lập tức đi khỏi, dường như không muốn xâm phạm vào lĩnh vực không phải của bà. Tôi nghĩ mẹ tôi luôn nhận thức về môi trường dễ gây sa ngã đang bao quanh nghề nghiệp của con trai mình, thậm chí chỉ để bảo vệ con trai, bà bỏ qua hết. Cứ như bà nghĩ thì các phần ý thức tốt đẹp cần thiết đã được gìn giữ ở gia đình.
Hôm qua tôi đã kể chuyện với hai người bạn về sự biến mất của thầy tôi. Ý kiến của họ tiêu biểu cho những người ngộ nhận về những người chơi cờ: Lạy Chúa, nhưng chính có lý do mới có người biến mất như thế! Không có lý do nào cả. Ván cờ của chiến thuật và chiến lược thường không liên quan đến mức tàn nhẫn hơn suy nghĩ hợp lý. Bạn chỉ cần nhìn vào khuôn mặt của Kasparov trên YouTube...
Đối với nhiều người, cờ vua là cách duy nhất có thể cùng ngồi với những người khác. Bao trùm là khả năng mở mang bộ nhớ, tỉnh táo và cứng rắn hơn so với đối thủ, để tìm sự kết hợp và có sự kiên nhẫn sử dụng mưu mẹo một cách chính xác trong ván kết thúc khi cảm thấy giống như một trận hòa. Họ là một nhóm người rất kỳ lạ, với tất cả các loại thói quen đáng thương, bịnh giật gân, thường tự xem mình là trung tâm, tính bạo lực và những thứ làm méo mó cái nhìn về bản thân và khả năng trí tuệ của mình.
Cần ví dụ không? Khi đến Paris, bạn săn tìm chỗ nào đó ở Jardin du Luxembourg nơi những người chơi cờ tập trung về. Nó tự nhiên là một khu vực ít bận rộn nhất. Nếu bạn tỉnh táo có thể ở lại và quan sát một lúc. Bạn sẽ thấy có gã trai đeo băng quanh đầu, dù rằng gã bị đau răng dữ dội không bao giờ dứt; ba gã khác nói chuyện với nhau, vài kẻ hôi hám, thằng bé bên phải bạn không thôi ho hen, hai gã khác vừa kết thúc một ván chơi đang lời qua tiếng lại lăng mạ chủng tộc. Trò chơi của người tử tế đấy ư? Duy nhất có ông tôi, chỉ chơi cờ ở nhà.
Trước khi bạn đi khỏi, có một điều duy nhất tôi cần làm rõ: giữa toàn bộ khối người điên này có hai nhà quán quân người Pháp và một người đạt hạng tư thế giới những năm 1980. Tôi đã gặp gỡ họ vài giờ vào năm trước.
*
Ở Brazil, quang cảnh chưa bao giờ cải thiện. Khi mẹ tôi cuối cùng rồi cũng cho tôi tự do quyết định giờ giấc đi về, tôi trở thành thành viên nhóm bạn cờ của thầy tôi. Tôi trẻ nhất. Hai người mới vào đại học lớn hơn tôi không nhiều. Những người khác chừng 25 và thiếu việc làm, hoặc sống rất tồi tàn, bỏ cả chơi cờ.
Khi quay lại đó, đầu những năm 1990, trung tâm cũ của São Paulo là không gian chia sẻ giữa trẻ em đường phố (chúng hoàn toàn không giống người dùng nức tiếng như bây giờ, thời gian chỉ để dành hít keo) và những câu lạc bộ đêm xuống cấp. Câu lạc bộ cờ vua đối diện với một trong những nơi đó.
Năm mười sáu tuổi, tôi biết tài năng chơi cờ của tôi sẽ không đưa tôi đi xa. Nhưng tôi không có bạn bè ở các lĩnh vực khác nên vẫn chơi cờ tại câu lạc bộ. Cứ cuối tuần, chúng tôi chơi đến hai giờ sáng, khi đó người gác cửa đang nôn nóng về nhà đã đuổi chúng tôi ra. Khi đó chúng tôi đi tới một quán bar xa kín đáo mở cửa thâu đêm và tiếp tục chơi cờ. Chủ quán cũng là một fan của môn cờ. Hai người nhóm bên kia có thầy tôi suốt cả đêm mất tăm mất tích ở một nơi nào đó. Một bộ phận người chơi cờ phong lưu bị lối sống sa đọa nào đó thu hút.
Mặc dù tôi chưa có quan hệ tình dục tuổi trưởng thành, con đường dẫn tới quán bar vẫn quyến rũ tôi: gái mại dâm giá rẻ áp lực lên đối tượng khác giới, các con buôn và bọn côn đồ. Tôi đã chấp nhận rủi ro! Nhưng khi tôi đi cùng nhóm, họ không bao giờ quấy rầy tôi.
Vào bốn giờ sáng, cảnh sát đã quyết định bố ráp, họ có thể phạt toàn bộ quán bar: vào tuổi tôi, dù rằng tôi không uống bia rượu, không có cách gì tôi được phép vào một nơi như vậy vào thời gian đó trong đêm. Nhưng ban đêm ở São Paulo luôn luôn cho phép một điều luật tương tự: chỉ có rắc rối ở ngoại vi thành phố. Miễn là ở trung tâm, ai muốn làm gì theo ý mình thì cứ làm, tất cả chúng tôi đã chà đi chà lại làu làu. Luôn có vài cảnh sát trong những người chơi cờ, dù vậy phong cách đặc biệt trong vở kịch của họ có phần quá mạnh tay đối với tôi.
Tôi đã kiệt sức, nhưng tôi bị mắc kẹt ra ở quán bar, tự hào được đón chờ những người lớn tuổi, đối mặt với họ như một người ngang hàng qua hội đồng quản trị, và trên hết, tự hào là một phần của thế giới cờ vua. Ngay lúc hừng sáng, các chuyến tàu điện ngầm bắt đầu chạy lại, tôi sẽ về nhà. Thầy giáo của tôi chắc chắn say chúi nhủi ở một nơi nào đó.
Khi bắt đầu vào đại học, tôi sống bên ngoài São Paulo và dần dần từ bỏ cuộc sống đó. Chừng vài năm, tôi không học cờ nữa và chỉ thi đấu thất thường. Như đã viết, tôi mất liên hệ với tất cả bạn bè thời niên thiếu.
*
Khi tôi ra khỏi hội đồng quản trị, tôi đã là tiến sĩ văn học Brazil và viết bốn cuốn sách. Thời gian tôi từ nhiệm đủ để làng cờ có nhiều thay đổi. Trước kia, chúng tôi phải đợi các tờ báo xuất bản tường thuật các trận so tài giữa Karpov và Kasparov. Trong thế giới cờ vua, Cuộc Chiến Tranh Lạnh đã hết thời. Bây giờ có thể xem các trận đấu trực tuyến trong thời gian thực. Sự thống trị môn cờ vua không còn thuộc về người Nga nữa: vô địch thế giới hiện nay thuộc về một kì thủ trẻ người Na-uy.
Chính một trong những bất ngờ của số phận bắt tôi quay lại chơi cờ. Năm 2009 tôi xuất bản cuốn tiểu thuyết Sách của quan lại, và ngay sau khi ra mắt tôi thấy một phụ nữ mua nó ở cửa hàng sách của rạp chiếu phim tại São Paulo. Người đó là mẹ của thầy tôi. Tôi hỏi thăm thầy và bà cho tôi số điện thoại của thầy bởi không muốn trực tiếp trao đổi bất cứ điều gì với bạn bè chơi cờ vua của con trai bà.
Chúng tôi chỉ biết chắc một điều: bà thích đi xem phim. J. đề nghị chúng tôi đợi đến thứ bảy và mỗi người đứng canh tại lối ra vào của mỗi rạp chiếu phim. Chắc chắn nó là một kế hoạch khủng khiếp nhưng là lựa chọn duy nhất để bất thình lình chiếu bí vua.
Khi sự sàng lọc cuối cùng kết thúc, chúng tôi trao đổi tin qua điện thoại: không có gì cả. Không ai chạm mặt bà. Vào giờ đầu chúng tôi gặp nhau ở quán bar đề bàn bạc sẽ làm việc gì. Đưa lời thỉnh cầu lên Facebook? Việc này, chúng tôi cần một tấm ảnh của bà. Đặt những dấu hiệu tìm kiếm khắp thành phố? São Paulo có kích thước quá rộng, ý tưởng đó không thực hiện được. Không có cách nào sáng sủa: Thầy tôi đã biến mất và chúng tôi không có cách nào tìm được ông.
Như lẽ thông thường, chúng ta bị đánh bại bởi chính sự thật là cái mà những người chơi cờ rất ghét: cuộc sống không phải là trò chơi.
(Nguồn: http://granta. com/my-chess-teacher)
(TCSH381/11-2020)
AMBROSE BIERCE
Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.
L. TOLSTOY
Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.
THOMAS VINT
L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.
JOSHUA BROWN (Mỹ)
“Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”
RAY BRADBURY
Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.
Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.
JORGE LUIS BORGES
Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.
CLAUDE FARRÈRE
Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.
HERMANN HESSE
(Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)
Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.
Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.
ALEKSANDAR HEMON
Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy.
Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.
LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.
LTS: Giải thưởng danh giá Goncourt của văn chương Pháp năm 2015 với tác giả là nhà văn Mathias Enard do Nxb. Actes Sud (Pháp) xuất bản.
Sinh ở Manzanillo năm 1907, Loló de la Torriente sống ở Havana từ thuở nhỏ. Bà đóng một vai trò tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại Machado và các chế độ ủng hộ đế quốc sau đó. Bà trở thành giáo viên và là một đảng viên của Đảng Cộng sản Cuba.
Michel Déon sinh năm 1919 tại Paris. Sau khi tốt nghiệp ngành Luật, ông tòng quân cho đến tháng 11 năm 1942. Ở lại vùng phía nam nước Pháp bị tạm chiếm, ông cộng tác với nhiều báo và tạp chí khác nhau.
LGT: Alissa York sinh tại Australia và lớn lên tại tỉnh bang Edmonton, Canada, và là tác giả của năm tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm bán chạy: The Naturalist, Fauna, Effigy, Mercy, Any Given Power. Cô nhận giải Bronwen Wallace Memorial Award vào năm 1999, và đã từng được đề cử giải văn chương danh giá Scotiabank Giller Prize.
LGT: “Cơn Giông” là một trong các tác phẩm Nabokov, văn hào Mỹ gốc Nga, viết trong thời kỳ ông còn sáng tác bằng tiếng Nga, và được đăng lần đầu trên báo Đỵíÿ (Hôm Nay) vào ngày 28 tháng 9 năm 1924. Sau này, nó được Dmitri Nabokov, con trai tác giả, dịch lại qua tiếng Anh và đăng trong một số tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Nabokov. Bản dịch dưới đây được dịch giả Thiên Lương, người từng dịch Lolita, thực hiện từ bản gốc tiếng Nga.
Nhự Chí Quyên là nhà văn ngoại sáu mươi, từng có tác phẩm những năm 1950. Truyện ngắn Thỏa nguyện (Như nguyện) của ông ca ngợi tấm lòng thương con của một bà mẹ công nhân, được coi là đặc sắc thời ấy.