LGT: “Cơn Giông” là một trong các tác phẩm Nabokov, văn hào Mỹ gốc Nga, viết trong thời kỳ ông còn sáng tác bằng tiếng Nga, và được đăng lần đầu trên báo Đỵíÿ (Hôm Nay) vào ngày 28 tháng 9 năm 1924. Sau này, nó được Dmitri Nabokov, con trai tác giả, dịch lại qua tiếng Anh và đăng trong một số tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Nabokov. Bản dịch dưới đây được dịch giả Thiên Lương, người từng dịch Lolita, thực hiện từ bản gốc tiếng Nga.
Văn hào Vladimir Nabokov - Ảnh: internet
Mặc dù được sáng tác từ khi tác giả còn rất trẻ (25 tuổi), nhưng “Cơn Giông” đã báo hiệu cho sự xuất hiện của một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nhân loại. Bằng lối viết đầy hình ảnh với các câu văn chặt chẽ, logic, nhiều tầng nghĩa, Nabokov đã đưa người đọc vào một thế giới huyền ảo rực rỡ ánh sáng, đầy ắp âm thanh, nửa thực nửa hư. Đã gần một trăm năm trôi qua từ khi tác phẩm xuất hiện lần đầu tiên, nhưng các nhà phê bình và độc giả vẫn tìm thấy trong tác phẩm chỉ dài chưa đến chín trăm chữ tiếng Nga này những điều mới lạ của một thế giới bất tử, thế giới của Vladimir Nabokov.
VLADIMIR NABOKOV
Nơi góc phố, dưới vòm hoa đoan, một mùi hương ngào ngạt quấn lấy tôi. Những tảng sương mù đồ sộ dâng lên trên trời đêm, và khi khoảnh sao cuối cùng bị nuốt chửng, thì ngọn gió mù lòa, che mặt bằng tay áo, lùa thấp theo phố vắng. Trong bóng tối nhập nhoạng, trên cánh cửa sắt của tiệm cắt tóc, một chiếc khiên treo - chiếc thau vàng - chao như quả lắc.
Về đến nhà, tôi bắt gặp ngọn gió đã đợi trong phòng: nó sập mạnh khung cửa sổ - và vội vã thốc ngược lại khi tôi khép cánh cửa sau lưng mình. Dưới cửa sổ phòng tôi có cái sân trong sâu hun hút, nơi đó, ban ngày, những chiếc sơ mi, bị đóng đinh trên các dây phơi rực nắng, tỏa sáng xuyên qua các bụi tử đinh hương và từ dưới ấy thỉnh thoảng lại vọng lên những tiếng sủa sầu muộn - giọng mấy người thu mua đồng nát ve chai; - ứ-ứ, - cây vỹ cầm tàn tật nức nở; và, có lần, một phụ nữ tóc vàng béo ú tới, đứng ngay giữa sân, hát hay đến nỗi các cô hầu, cúi cần cổ trần, nhoài cả người ra ngoài mọi cửa sổ, - sau đó, khi chị ta ngưng hát, mọi thứ trở nên yên lặng khác thường; - chỉ nghe tiếng bà chủ nhà tôi, một mụ góa lôi thôi, đang thổn thức hỉ mũi trong hành lang.
Giờ thì dưới ấy, màn sương u ám ngột ngạt đang trương lên, nhưng kìa, ngọn gió mù lòa, vừa bơ vơ luồn xuống đáy sâu, lại bắt đầu rướn lên trời, và đột nhiên - nó sáng mắt ra, lao vút lên và, trong những hố sâu màu hổ phách bên bức tường đen ngòm đối diện, những bóng tay và bóng tóc tất tả tới lui, bắt lại các khung cửa bay, sầm sập đóng chặt cửa sổ. Các cửa sổ vụt tắt. Và lập tức, trong màn đêm tím thẫm, một tràng âm thanh trầm đục, tiếng sấm xa, bắt đầu vỡ ra, lan rộng. Rồi mọi thứ lại lặng đi, như lúc chị hành khất ngừng hát, siết chặt tay lên bộ ngực đầy.
Tôi thiếp đi trong sự yên ả ấy, lử lả vì vui, một niềm vui mà tôi chẳng thể viết thành lời - và giấc mơ tôi chan chứa bóng hình em.
Tôi bừng tỉnh vì đêm vỡ vụn. Ánh lấp lánh nhợt nhạt, cuồng dại bay ngang bầu trời, tựa chớp hồi quang của chiếc nan hoa vĩ đại. Hết tiếng sét này đến tiếng sét khác xé toạc bầu trời. Mưa rơi rào rạt nơi nơi.
Tôi say những rung động xanh nhờ ấy, cái lạnh nhẹ buốt ấy. Tôi bước lên bậu cửa sổ ướt đẫm, hít không khí siêu phàm, nó làm tim tôi ngân lên, như kính.
Càng lúc càng gần hơn, càng lúc càng kỳ vĩ hơn, cỗ mã xa của nhà tiên tri rền vang theo những áng mây. Ánh sáng của sự điên rồ, của những ảo cảnh nhức mắt, rọi tỏ cõi đêm, những mái dốc kim loại, những bụi tử đinh hương cuống cuồng chạy trốn. Thần sấm, một ông khổng lồ tóc bạc, với bộ râu bão táp bị gió vắt ngược qua vai, mặc bộ lễ phục phấp phới chói ngời, đứng, ngả người về phía sau, trong cỗ mã xa ngùn ngụt cháy của mình, gồng tay ghìm lũ chiến mã khổng lồ, lông đen huyền, bờm rực lửa tím. Chúng lao vùn vụt, chúng phì bọt lóng lánh đì đùng, cỗ mã xa nghiêng ngả, và nhà tiên tri bối rối ghì dây cương mà chẳng ăn thua. Gương mặt ông bị méo đi bởi gió và sự căng thẳng; cơn lốc, thổi tung các nếp lễ phục, lột trần đầu gối vạm vỡ, - lũ chiến mã, tung bờm rực lửa, bay - mỗi lúc mỗi hăng - thấp dần, thấp dần theo những áng mây. Và đây, với những tiếng sấm ầm ì, chúng tung vó qua một nóc nhà sáng bóng, cỗ mã xa liệng đi, Elijah loạng choạng, và lũ chiến mã, điên lên bởi đụng phải chất kim loại phàm trần, nhào ngược lên trời. Nhà tiên tri bị quăng ra ngoài. Một bánh xe văng đi. Từ cửa sổ nhà mình, tôi thấy cái vành khổng lồ rực lửa của nó lăn theo mái nhà, chệnh choạng tại bờ mái, và nhảy vào bóng tối lờ mờ. Còn lũ chiến mã, kéo lê theo chúng cỗ mã xa bị lật nhào, nảy tưng tưng, đã bay nhanh theo những áng mây cao ngất; tiếng rầm rầm tắt dần và ngọn lửa giông lụi tàn trong những vực thẳm tím than.
Thần sấm, vừa rơi lên mái, nặng nề đứng dậy, đôi xăng đan của ông trượt đi; ông đạp chân vỡ cửa tò vò mái nhà, càu nhàu, khoát tay túm lấy ống khói. Chầm chậm quay gương mặt tối sầm lại, ông đưa mắt tìm kiếm thứ gì đó - hẳn là chiếc bánh xe vừa bung khỏi cái trục vàng. Sau đó ông ngước lên, các ngón tay túm chặt bộ râu rối, cáu kỉnh lắc đầu - chắc đây không phải lần đầu chuyện ấy xảy ra - và, hơi tập tễnh, bắt đầu thận trọng leo xuống dưới.
Rời cửa sổ, hấp tấp và hồi hộp, tôi khoác áo choàng và chạy xuống chiếc thang dốc dẫn thẳng đến sân trong. Cơn giông đã qua, nhưng trời còn lất phất mưa. Phương đông ửng màu xanh tái tuyệt đẹp.
Cái sân trong, nhìn từ trên cao thì như thể chìm trong bóng tối đặc quánh, thực ra ngập màn sương mỏng đang tan. Giữa sân, trên bãi cỏ thẫm màu vì ẩm ướt, một ông già gầy guộc, lưng còng vai xo, mặc chiếc áo thụng đẫm nước mưa, đứng lẩm bẩm nói gì đó và nhìn quanh. Trông thấy tôi, ông giận dữ nháy mắt:
- Là ngươi hả, Elisha?
Tôi cúi đầu. Nhà tiên tri chặt lưỡi, xoa xoa lòng bàn tay lên chỗ hói nâu nâu.
- Rớt đâu cái bánh. Tìm cho ta đi.
Mưa đã tạnh. Trên nóc nhà, những đám mây đồ sộ bừng bừng cháy. Xung quanh, trong không trung xanh mờ ngái ngủ, các bụi cây, hàng rào, cái cũi chó lấp lánh lững lờ trôi. Chúng tôi mò mẫm tìm rất lâu khắp các xó xỉnh. Ông già luôn miệng càu nhàu, nâng gấu áo nặng trĩu, lội đôi xăng đan mòn vẹt lõm bõm qua các vũng nước mưa và trên đầu cái mũi to, xương xẩu của ông treo một giọt nước lấp lánh. Gạt nhánh tử đinh hương thấp lè tè, tôi chợt để ý thấy, trên đống rác, giữa kính vỡ, một bánh sắt mỏng, chắc là từ cái xe nôi trẻ con nào đó, ông già thở phào nồng ấm ngay trên tai tôi và hấp tấp, thậm chí hơi thô bạo đẩy tôi qua bên, chộp cái vành han gỉ ấy nhấc lên. Ông nháy mắt vui vẻ bảo tôi:
- Thì ra là lăn vào đây…
Rồi ông chằm chằm nhìn tôi, nhíu cặp mày bạc, - và như thể chợt nhớ ra điều gì đó, oai nghiêm nói:
- Quay mặt đi nào, Elisha.
Tôi vâng lời. Thậm chí còn nheo mắt lại. Đứng như vậy được chừng một phút, - và không giữ được lâu hơn.
Sân vắng tanh. Chỉ có con chó già lông xù với cái mõm bạc màu thò đầu ra khỏi cũi và giống như người, ngước đôi mắt nâu sẫm đầy vẻ sợ hãi nhìn lên. Tôi ngẩng đầu. Elijah đã leo lên mái nhà, chiếc vành sắt sáng lờ mờ sau lưng ông. Trên những ống khói đen, một áng mây sừng sững hiện lên như rặng núi loăn xoăn vàng cam, và sau nó là áng thứ hai, thứ ba. Tôi và con chó im bặt ấy đăm đắm dõi theo nhà tiên tri, vừa leo đến đỉnh nóc nhà, bình tĩnh và thong thả đặt chân lên mây và tiếp tục trèo lên trên, nặng nề bước theo ngọn lửa dịu êm.
Nắng rọi vào bánh xe của ông, nó lập tức biến thành chiếc vòng vàng khổng lồ, - và chính Elijah dường như lúc này cũng mặc bộ lễ phục lửa, hòa mình với những ráng mây thiên đường ấy, bước mỗi lúc mỗi cao hơn, cao hơn nữa, cho đến khi biến vào lũng trời rực cháy.
Chỉ đến lúc đó thì con chó già mới cất tiếng sủa khàn khàn ban mai, - và những gợn sóng lăn tăn trên bề mặt sáng chói của vũng nước mưa; làn gió hiu hiu lay động các cây phong lữ đỏ thắm trên ban công, đôi ba cửa sổ tỉnh giấc nồng, - và tôi chạy ra ngoài phố, chân đi đôi dép ngủ kẻ ô ướt sũng, người mặc chiếc áo choàng phai màu, bắt kịp chiếc tàu điện ngái ngủ đầu tiên, vừa chạy vừa khép vạt áo và vừa cười hoài, vừa hình dung, chỉ lát nữa thôi là sẽ tới nhà em và kể em nghe về vụ tai nạn trời đêm ấy, về nhà tiên tri già cáu kỉnh ấy, vừa rơi xuống khoảng sân nhỏ của tôi.
Thiên Lương dịch
(SH324/02-16)
Dazai Osamu (1909 - 1948) tác gia kiệt xuất, đại diện cho “trường phái vô lại”, đó là một nhóm các nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy, trong nền văn học cận - hiện đại Nhật Bản. Phần lớn những tác phẩm của ông đều mang tính chất tự thuật với văn phong u mặc, diễn tả tâm trạng bế tắc trong thời kỳ hậu chiến và bi kịch cá nhân, đồng thời cũng dí dỏm, hài hước một cách cay đắng.
Han Kang được trao giải Nobel Văn học năm 2024 do có “văn xuôi đầy chất thơ mãnh liệt đối mặt với những tổn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của đời người”.
XERGÂY ĐÔVLATÔP
MURAKAMI HARUKI
SHERWOOD ANDERSON
WILLIAM SOMERSET MAUGHAM
William Somerset Maugham là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh năm 1874 tại Paris, Pháp, và là con của một cố vấn pháp luật trong tòa đại sứ Anh tại Paris.
Okamoto Kanoko (1889 - 1939) nhà thơ Tanka và là nhà nghiên cứu Phật giáo. Sinh ra trong một gia đình giàu có tại Tokyo, sau khi tốt nghiệp trường nữ sinh Atomi, bà theo học nữ tác gia Yosano Akiko và đã công bố một số bài thơ Tanka.
Nhà văn Mỹ Sarah Orne Jewett sinh năm 1849 và mất năm 1909. Bà là nhà tiểu thuyết, nhà thơ và nhà văn viết truyện ngắn (Short Story Writer). Bang Maine là không gian chính trong tác phẩm của bà. Văn chương của bà sớm đề cập đến các vấn đề sinh thái và các vấn đề xã hội khác, có tính vùng miền.
Trần Ngọc Hồ Trường dịch và giới thiệu
PHILIP CHARTER
C. J. MCCARTHY
Cormac McCarthy là nhà văn người Mỹ, ông nổi tiếng với phong cách viết bạo liệt và u ám. McCarthy chuyên viết tiểu thuyết và được giới hàn lâm đánh giá cao ở ngay tiểu thuyết đầu tiên, The Orchard Keeper (1965), nhưng ông không thành công với độc giả đại chúng.
FERNANDO SORRENTINO
Jon Fosse là kịch gia đương đại, nổi danh với tặng thưởng Nobel văn chương 2023. Số lượng truyện ngắn đã xuất bản không nhiều, Jon Fosse vẫn ghi dấu với một phong cách độc đáo. Người em gái nhỏ (Søster) xuất bản năm 2000, bản dịch Anh ngữ in trong tập Scenes from a childhood (Damion Searls dịch) năm 2018.
OGAWA MIMEI
JOSEPHIN JOHNSON
(Mỹ)
Gnark ngồi trong buồng ngủ, mắt nhìn những tấm giấy phủ tường. Một cảm giác là lạ xâm chiếm lòng anh.
SRI DAORUANG
Nhà văn Sri Daoruang tên thật là Wanna Sawasdsri, sinh năm 1943, quê quán ở Phitsanulok, Bắc Bangkok, Thái Lan. Bà là tác giả của tuyển tập Quỷ truyện Dân gian (Tales of the Demon Folk, 1984).
HENRI TROYAT
LTS. Henri Troyat tên thật là Lev Tarassov sinh năm 1911 tại Moskva. Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. Giải thưởng văn học đầu tiên với tác phẩm "Faux jours" (1935). Ông đã xuất bản trên 20 tác phẩm tiểu thuyết và truyện ngắn. Những tác phẩm được dư luận đặc biệt chú ý như bộ ba tiểu thuyết "Tant que la terre durera" (1947), "Le sac et la cendre" (1948) và "Etrangers sur la terre" (1950) hoặc như "La lumière des Justes"... Ông còn viết cả kịch bản văn học. Truyện ngắn "Cơn choáng" (Le vertige) lấy từ tập "La Fosse Commune" xuất bản năm 1986.
Yamakawa Masao (1930 - 1965), tên thật là Yamakawa Yoshimi, ông sinh ở Tokyo, tốt nghiệp Đại học tư thục Keo (khoa Pháp văn). Yamakawa Masao từng làm biên tập cho Tạp chí văn học Mita Bungaku. Sau đó ông viết và công bố các truyện ngắn như: Cái chết mỗi ngày, Năm ấy, Công viên ven biển… với phong cách tinh tế, miêu tả sự phi lý của cái chết và tuổi trẻ thời kỳ hậu chiến. Ông qua đời năm 34 tuổi do tai nạn giao thông.
Nhà văn Ấn Độ (người Hindi), Krishna Baldev Vaid sinh năm 1927. Ông học đại học tại Punjab và Harvard; dạy học tại nhiều trường đại học ở Ấn Độ và Mỹ. Ông viết tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn, phê bình và dịch thuật văn học. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Nga, Nhật và các tiếng khác ở Ấn Độ.
HÁCH XUYÊN THỨ LANG
(Nhật)
Phải dấu việc này không cho anh ấy biết. Lãng Tử nghĩ vậy và nắm chặt bao nhỏ trong tay, tần ngần rảo bước trên cầu. Đêm tối không người với dòng sông lặng lẽ trôi giữa một màn đen kịt, và rồi nó sẽ mang đi điều bí mật của ta.
DHUMKETU
Dhumketu là bút danh của Gaurishankar Govardhauram, là nhà văn Ấn Độ (1892 - 1965), thường được xem như là một trong những người khai sáng loại hình truyện ngắn. Tác phẩm của ông thường có bút pháp gây xúc động, lãng mạn hoặc miêu tả đậm nét những cảm xúc của con người.