Vài suy nghĩ về những cây bút trẻ (thời điểm 1990)

14:41 13/06/2017


(Ý kiến của Nguyễn Văn Bổng, Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến)

Để chuẩn bị cho số chuyên đề về những cây bút trẻ, Tòa soạn Sông Hương đã phỏng vấn một số nhà văn, nhà phê bình với 3 nội dung:
1) Xin cho biết 5 cây bút trẻ có tác phẩm đáng chú ý trong thời gian qua?
2) Những ưu điểm, những đóng góp đáng kể nhất của lực lượng trẻ?
3) Những mặt hạn chế (hoặc là những nhược điểm) của họ? Từ đó, có gì cần nhắn gửi, tâm sự với các cây bút trẻ?
Có ý kiến trả lời không đủ cả 3 nội dung, cũng có ý kiến rộng hơn những vấn đề Tòa soạn đặt ra. Cùng với bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc, Trưởng ban sáng tác Hội nhà văn Việt Nam, những ý kiến chúng tôi giới thiệu sau đây sẽ đóng góp một cách nhìn, một cách đánh giá tình hình văn học vừa qua thể hiện qua những cây bút trẻ (Chúng tôi cũng đã gửi phỏng vấn tới nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú và nhà thơ Hữu Thỉnh, 2 ủy viên BCH Hội nhà văn đặc trách công tác hội viên, nhưng rất tiếc chưa nhận được bài trả lời.)
SH




NGUYỄN VĂN BỔNG

I- Mắt tôi hiện nay đọc rất khó. Tuy vậy, gặp những truyện như Dị mộng của Cung Tích Biền trên Sông Hương số 2 năm 1990 - với tên của tác giả và truyện được in trên giấy trắng chữ rõ- tôi đã cố đọc và rất mừng thấy Cung Tích Biền vẫn tiếp tục viết. Tôi mong được gặp trên sách báo của ta ngày nay không chỉ những cây bút mới mà cả những cây bút đã từng quen biết trước đây ở Sài Gòn và các đô thị miền Nam.

Cũng có những tác phẩm tôi nhờ đọc để biết như gần đây Đám cưới không có giá thú của Ma Văn Kháng, hay Góc tăm tối cuối cùng của Khuất Quang Thụy... Nhưng phần lớn là tôi lắng nghe các dư luận trên báo chí, hoặc giữa bạn bè, anh em, thì thấy trong văn học của ta hiện nay quả thật có những cái mới đáng mừng. Cái mới đáng kể nhất là nó đã góp phần phá vỡ những cấm kỵ - hoặc thành văn, hoặc không thành văn, có điều có lý hay cần thiết trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhưng nhiều điều vô lý và không cần thiết - những cấm kỵ đã gây nên gò bó, kể cả lo sợ, trở ngại cho sáng tác văn học nghệ thuật.

Chiều hướng đó trong văn học ta hiện nay cần được khuyến khích mạnh mẽ, cần được bảo vệ chống lại những sự đả phá, hạn chế. Tuy nhiên cũng đã đến lúc không nên bỏ qua những lệch lạc sẽ làm chậm phát triển nền văn học của chúng ta. Tôi không muốn nói về những quyển sách chạy theo thị hiếu tầm thường của người đọc đang lan tràn trên thị trường. Tôi cũng không muốn nói đến những sách viết ẩu hay còn quá vụng về, mà bằng cách này hay cách khác vẫn được tung ra... Tôi muốn nói về những cây bút đầy tâm huyết, viết về những vấn đề mình ôm ấp từ lâu và, đã tạo ra tác phẩm có giá trị như trường hợp Đám cưới không có giá thú. Trong những quyển sách tôi được biết hiện nay, đây là quyển tiểu thuyết tôi thấy "dữ dội" nhất, không phải vì nó dồn nói về cái xấu, cái tiêu cực; không phải nó động đến những nhân vật này hay tập thể kia; mà vì nó động đến những vấn đề trọng đại trong xã hội: chính trị, tôn giáo, đạo đức... với những suy nghĩ mạnh dạn, phần lớn rõ ràng là đúng, nhưng đây đó không khỏi không có những suy nghĩ cần được thảo luận lại.

Sự đổi mới trong văn học cần những sự trao đổi, thảo luận công khai và thiện ý đối với nền văn học, đối với các tác giả.

Ngoài những quyển như Thời xa vắng của Lê Lựu, các truyện của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... tôi được đọc từ các năm trước, gần đây tôi nghe nói đến hàng chục, hơn cả chục tác phẩm đáng chú ý khác của các cây bút trong Nam, ngoài Bắc, cũ có, mới có... nhưng tiếc là tôi không đọc được, nên không thể trả lời câu hỏi này.

II. Tôi có thể nói gì với các anh chị em viết trẻ?

Tôi vừa nghe đọc xong truyện Thập giá gỗ của Lê Đình Trường trên tạp chí Tác phẩm mới số 2 năm 1990. Tôi biết tác giả ở Cà Mau, nhưng chưa gặp, chưa đọc gì của anh. Tôi coi anh là một cây bút trẻ, nhưng với một cây bút trẻ viết được một truyện như vậy, tôi biết nói gì? cần phải nói gì?...

Nếu phải nói, cũng chỉ quanh việc đổi mới của Văn học ta hiện nay. Văn học luôn luôn phản ứng lại cái cũ, cái mòn, cái quen thuộc. Bên cạnh sự đòi hỏi của xã hội, bản thân văn học cũng luôn luôn đòi đổi mới; trước năm 1945, văn học chúng ta đã có dòng hiện thực, dòng lãng mạn, có các thứ văn học đồi trụy, siêu hình, văn học đi vào ngóc ngách của tâm hồn, đi vào tâm linh, tiềm thức, vô thức. Có những giọng văn tàn nhẫn, kênh kiệu, chửi bới lung tung; có loại văn "hở nút" như thách đố mọi người... Đủ cả! Nếu không có Cách mạng tháng Tám, chưa biết văn học ta hồi bấy giờ còn đi đến đâu? Chắc sẽ có văn học hiện sinh, văn học phi lý, văn học cấu trúc, "tiểu thuyết mới" vân vân và vân vân...

Các nhà văn chúng ta trước 1945 đã bắt đầu thấy chán ngán, may thay có Cách mạng tháng Tám! Một cuộc đổi đời thật sự, đổi mới tư duy lớn lao. Họ lao theo cách mạng, theo kháng chiến với tất cả nhiệt tình người công dân và người cầm bút. Họ háo hức xây dựng một nền văn học mới, chứa đựng một chủ nghĩa nhân văn mới. Họ nhiệt tình muốn xây dựng những con người mới, một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.

Thiện chí của họ không có gì đáng chê trách. Nền văn học họ góp phần xây dựng nên trong năm mươi năm qua rất đáng tự hào. Tuy nhiên, vì những lý do này khác, mà chủ yếu là các quan niệm thô thiển, máy móc, thực dụng chủ nghĩa về văn học, nên đã có những hạn chế, khiến từ sau 1975, trong đời sống đòi hỏi đổi mới người ta thấy nhàm chán với nó. Người ta đổ xô vào tìm cái mới trong sách dịch của nước ngoài. Người ta quay lại với "cái mới" trong văn học lãng mạn trước 1945. Người ta chán ngán với các vấn đề chính trị, xã hội, trở lại với những vấn đề sâu kín của con người, đi vào tâm linh, tiềm thức, vô thức...

Phải ủng hộ mọi sự tìm tòi, đổi mới; thật sự vui mừng với những kết quả dầu còn nhỏ nhoi, non nớt. Nhưng phải là của thật. Văn học phản ứng lại cái cũ, cái mòn, nhưng văn học cũng chống lại cái giả. Tìm tòi, đổi mới phải tự đầu óc, trái tim, máu thịt của chính mình. Không thể có cái mới nào với vay mượn, bắt chước, học đòi, chạy theo thị hiếu, thời thượng. Không phải ai cũng ca tụng hay, hoặc phê phán hay. Không phải ai cũng viết giỏi về các vấn đề xã hội, hoặc biết tinh tế về các vấn đề của con người. Không phải ai cũng có cái nhìn sắc cạnh đối với thực tế đời sống, hoặc có trí tưởng tượng huyền ảo về thực tế... Tùy "cái tạng" của mỗi người chúng ta. Tùy hoàn cảnh đào tạo, trưởng thành của mỗi chúng ta.

Tìm được mình trong văn học rất khó. Có người hì hục suốt đời, đến những ngày cuối cùng mới chợt thấy mình lầm đường! Phải chân thành tự tìm mình từ những bước đi đầu, sẽ góp được cái mới của mình cho văn học.
                                                4-90


XUÂN CANG

1- Những tác phẩm của Nguyễn Quang Lộc, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài; Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh Châu). Nhà thơ áp tải (Thơ- Trần Nhuận Minh). Ngoài khơi miền đất hứa (Nguyễn Quang Thân).

2- Những cố gắng phát hiện khám phá. Những tìm tòi riêng, những phong cách riêng, những lối nghĩ riêng, độc lập, cay đắng và đau đớn, trần trụi giữa đời thường, không biết sợ. Viết ít, sắc lẻm. Không ồn ào, không coi thường bạn đọc. Chọn bạn đọc cho mình. Đầy tì vết. Sù sì, gai góc.

3- Nhắn thôi. Chẳng nhủ và khuyên được gì hết. Một bên là núi cao, một bên là vực thẳm, phía trước trời hửng sáng, đằng sau cầu đã cắt, không có lối lùi, trên mình trang bị đầy máy móc mới nhưng không dựa được vào bất cứ thông tin nào hết, bản thân mình cũng là một cái máy phát. Đi chậm choại đầy nguy hiểm và đầy tự tin. Nhưng phải đi như thế mà thôi. Cả nhân loại đang dò dẫm. Chúng ta không đi một mình, không ồn ào, không sa đà. Vừa đi vừa hát những bài ca riêng của mình. Làm việc không ngừng. Chưa bao giờ dễ viết hay như bây giờ. Chưa bao giờ sáng tác bung ra như bây giờ. Nhưng cũng chưa bao giờ viết khó như bây giờ.


NGUYỄN KIÊN

Gần đây tôi có tham gia đọc bản thảo cho một vài cuộc vận động sáng tác và tuyển chọn truyện của các tác giả trẻ để làm sách, tôi xin trả lời câu hỏi 2 và 3.

2) Những người viết trẻ hiện nay khá đông, ở hầu khắp các miền đất nước, anh chị em viết nhiều, một số viết khá hay hoặc có những nét đặc sắc. Văn học ta trong giai đoạn trước thiếu đa dạng. Sự đóng góp của các tác giả trẻ, làm cho văn học ta đa dạng hơn, là rõ ràng. Nhiều tác giả trẻ có sự xông xáo và ý thức tìm tòi ráo riết trong cách cảm nhận cuộc sống và cách biểu hiện mà đôi khi, theo một thói quen nào đó, người ta thấy có cái gì lạ lẫm, có cái gì quá lớn. Đây là bước khởi đầu, với mặt mạnh và mặt yếu của một lực lượng mà chỉ một ngày mai gần gũi sẽ trở thành lực lượng chủ chốt của phong trào sáng tác.

3) Văn chương vừa là nghề vừa là một nghiệp mà người cầm bút tự vận vào mình. Có người viết lúc đầu chưa hay, về sau mới hay. Có người thì ngược lại. Cũng có người cứ viết đều đều mà chẳng bao giờ hay cả. Nó có vẻ rắc rối như thế không ai dám nói chắc. Nhưng có lẽ vì thế mà văn chương không chỉ là nghề như mọi thứ nghề.


HÀ MINH ĐỨC

Trong những năm gần đây văn học ta đang có một xu thế phát triển mới đặc biệt là trong văn xuôi. Cái khác biệt với những sáng tác trước đây là ở cách nhìn cuộc sống một cách thẳng thắn, chân thực không chịu những ràng buộc sách vở và định kiến xã hội, ở sự quan tâm đến số phận của con người trong dòng đời với nhiều mối quan hệ phong phú phức tạp, ở cách xử lý có tính chất nhân bản nhiều vấn đề xã hội. Và riêng nghệ thuật thực sự đã tạo được nhiều màu sắc – thẩm mỹ mới. Phần lớn những tác phẩm trên thuộc về những nhà văn đang sung sức của thời kỳ chống Mỹ, lớp nhà văn xuất hiện sau 1975 và nhiều tác giả trẻ. Nhiều cuốn tiểu thuyết cũng như truyện ngắn đầu tay của các tác giả trẻ đã ở một điểm xuất phát cao, có sức thuyết phục về tư tưởng và nghệ thuật. Tôi xin chân thành bày tỏ niềm vui và lòng tin cậy.


HOÀNG NGỌC HIẾN

1) Tôi quan niệm nhà văn trẻ là từ lứa tuổi ba mươi trở xuống. Phạm Thị Hoài, (sinh năm 1960), Tạ Duy Anh (sinh năm 1959) là hai nhà văn đang được công luận chú ý và tuổi đời còn trẻ.

2) Viết được và viết hay đôi điều mà những nhà văn ưu tú các thế hệ trước không viết.

3) Không viết được nhiều điều mà những nhà văn ưu tú thế hệ trước thời trẻ viết rất giỏi.

(TCSH43/06-1990)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH