Hồ Minh Tâm từng đạt giải ba cuộc thi thơ Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội 2015 - 2016; giải Nhì (không có giải Nhất) cuộc thi thơ Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội 2021 - 2022. Tác phẩm đã xuất bản: “Ngủ ở quán trà” (thơ), Nxb. Hội Nhà văn, 2015.
Khác với phần lớn các cây bút đương đại, ưa thử nghiệm mình ở nhiều thể loại, Hồ Minh Tâm dường như chỉ có thơ. Sau giải thưởng cao nhất cuộc thi thơ Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội 2021 - 2022, Hồ Minh Tâm vẫn vậy, thưa thoảng xuất hiện trên mặt báo. Anh như kẻ đi men theo lề của đường thơ, một bước trong tâm, hai bước bên rìa.
Thơ, với Hồ Minh Tâm, trước hết là một trò chơi. Có lẽ bởi sự “xâm thực” của sự chơi nên khi đọc thơ anh, độc giả thường bối rối, không biết phải/nên “chơi” cùng nó thế nào, vì họ không/chưa hiểu hay chưa kịp “thỏa thuận” luật chơi cùng tác giả. Hồ Minh Tâm hiểu điều này, vì đây là sự lựa chọn chủ động của anh, về một trò chơi có rất ít người chơi và khán giả.
Để đến với thế giới của sự chơi, thơ Hồ Minh Tâm có xu hướng khước từ các sứ mệnh của thơ ca truyền thống. Thơ được/bị biến thành một không gian tự trị, một phản thơ, lệch chuẩn. Trong sân chơi ấy, tác giả là một người chơi. Không phải ngẫu nhiên, Hồ Minh Tâm thường viết thơ theo hứng, có hứng thì viết, không thì thôi, viết xong, đăng báo cũng tốt, mà đăng lên Facebook vài dòng cũng chẳng sao. Với ý nghĩa này, thơ Hồ Minh Tâm nằm ngoài các mục tiêu vụ lợi trực tiếp. Trên sân chơi có phần đặc dị, người chơi không muốn, và cũng chẳng thể nài ép mọi người nhập cuộc. Ai thích thì đến chơi cùng, tự do, tự nguyện, ai không thích, không hiểu thì thôi. Có người chỉ đến ngó qua, bình luận vài câu rồi bỏ đi, cũng chẳng sao. Để vận hành trò chơi, không chỉ cần hứng thú, mà phải có quy tắc, luật lệ. Khác với các trò chơi theo luật truyền thống, Hồ Minh Tâm (theo lối hẹp của Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường…) nỗ lực thiết tạo những quy tắc mới nhằm giải phóng bản thân và bạn đọc khỏi những “thói quen thơ” (kiểu tỏ lòng, trữ tình, hình ảnh, vần, nhạc, nhịp…), quyết liệt chống lại sự nhàm tẻ của lối trữ tình và những diễn ngôn thơ phổ quát ngõ hầu mở ra những khả thể mới cho thơ. Nói khác đi, trong thế giới sự chơi, Hồ Minh Tâm cố tình chối bỏ những thói quen và giới hạn truyền thống của thơ (nghĩa, cảm xúc, từ ngữ, cú pháp...). Thơ Hồ Minh Tâm khó tiếp cận là ở chỗ, anh tìm đến một không gian mang đậm tính cá nhân, ngữ cảnh, hoàn toàn không truy cầu câu chuyện phổ biến của thơ. Hồ Minh Tâm tuy không đơn nhất, nhưng đơn độc trong không gian thơ đương đại, vì lẽ ấy.
Đầu tiên là chuyện nhan đề. Quan sát một chút, có thể thấy, Hồ Minh Tâm thường đặt tên nhan đề thơ của mình theo lối tự sự vụn vẽ, quái và nhảm, kiểu: Buổi chiều lấn quấn, Bài thơ về thời đại gì mà…, Tùy thích có mức độ, Mưa, xích lô và tôi nữa… rời rạc, Nhảm, Nuốt nhầm đầu mình, Rồi ngày nữa cũng sắp qua… trò chuyện với con thằn lằn không sướng mấy… Kiểu nhan đề này vừa gợi cái “tào lao” của thơ, vừa như một hình thức “nhại thơ”. Cách đặt nhan đề và hành ngôn của Hồ Minh Tâm không phải duy nhất trên sân chơi đương đại, song về cơ bản, đó là một quy trình đi ngược/kháng cự lại lối trữ tình phổ biến hiện nay, và đương nhiên, nó luôn thuộc về số ít.
Thứ hai là về đối tượng thẩm mỹ của thơ. Khác với tư duy truyền thống, Hồ Minh Tâm thường gắn thơ với những chuyện vụn vặt/vụn nát hàng ngày. “Người thơ” thường xuyên chối bỏ cảm xúc trữ tình. Không khó để nhận ra, Hồ Minh Tâm cả ngày “lẩn thẩn” với những chó, ruồi, kiến, thằn lằn, chim, nhộng, gà, giun đất, con lật đật, bàn tay cụt ngón, ý nghĩ vuông, tiếng hú, cơn ho, cái đồng hồ, ban công… Nhà thơ công nhiên xóa bỏ sự thi vị cùng mọi sự nghiêm túc của xúc cảm trong thơ. Thơ, khi ấy, được/bị đẩy sang rìa, như một trò diễn, có lúc tào lao, nhảm nhí, vô tăm tích, khi lại rất chi là “ấm ớ”:
“trong lúc họ đang bàn tán về cách “chơi” ngôi nhà…/ tôi thấy tôi đã ngồi bên bàn làm việc nhìn ra ô cửa sổ đẹp của ngôi nhà đó/ bật laptop gõ bậy mấy dòng này/ chơi vậy à/ hà hà” (Tùy thích có mức độ).
“Gọt đẽo đời rất thương của đời/ thành một đời rất thường khác/ gọn/ sắc/ gân/ và lõi/ em mần thơ…” (Em).
Thứ ba là những hình thức dị biệt, độc đáo trong cách hành ngôn. Ở đây, không phải vấn đề “hạ thấp” văn học, mà có lẽ nhà thơ muốn nhấn mạnh bản chất sự chơi. Đọc Hồ Minh Tâm, thấy xuất hiện thường xuyên những chuỗi ngôn từ “lảm nhảm”, có khi vô nghĩa, gây cảm giác hồ nghi: “thế mà là thơ ư?” Ngôn ngữ thơ Hồ Minh Tâm như một “sự xúc phạm” đối với công chúng đi tìm vẻ đẹp thuần khiết của thi ca. Trên một ý nghĩa nào đó, Hồ Minh Tâm là kẻ phá bĩnh của thơ. Anh đẩy thơ gần với tự sự, nói khác đi, đó là những dòng “thơ khách thể” vừa có chỗ giống những mật ngôn, vừa giống như một chuỗi lắp ghép ngôn từ đầy ngẫu hứng:
“theo kế hoạch thì bây giờ là buổi sáng/ thế nhưng cơn đau dạ dày đến sớm/ [tôi đành biến đau thương thành đau ghét]/ trong cái buồn tối hữu hạn/ không đường chân trời/ không đích đến/ cơn đau giờ là một vết sáng âm bản/ bay bay bay & nó kéo tôi bay/ mà không cần mở mắt” (Tùy thích có mức độ).
“trong giấc mơ lại khét mùi nước mắm/ những con cá biển nhảy lên bờ chen dọc chen ngang/ trương vảy phùng mang/ đòi mọc tay…/ thời đại gì mà/ mỗi lần mở laptop/ tứ tung lao ra một cơ số bò điên [mà, không hẳn thế… nhiều loại điên nguy hiểm hơn nhiều!?]” (Bàn về thời đại gì mà…).
Thứ tư, thơ Hồ Minh Tâm thường hướng đến lối viết mang tính trò diễn. Đọc Hồ Minh Tâm, thấy không gian thơ anh như một sân chơi Các-na-van với đủ thứ “hầm bà lằng” gắn với các thủ pháp giễu nhại, bỡn cợt, cố ý quấy đảo, đối chọi, làm sai trật ngôn ngữ thơ trung tâm, thiết tạo một vùng thực tại ngôn ngữ khác. Có lẽ, chỉ có cách vi phạm các diễn ngôn thơ trung tâm, Hồ Minh Tâm mới kiến tạo thế giới thơ rìa của mình trong đời sống văn chương đương đại. Qua đó, theo một cách riêng, anh làm hiện hình những diễn ngôn bị câm nín (kiểu nói vỉa hè: “từ đít tới đầu”, “đồ khỉ!”, “điên thế chó nào được”, “quan tâm đếch gì”, “đếch viết được”, “yêu cần chi nghe bố con thằng nào hướng dẫn”, “đìu cộ đừng hỏi khó!”…; từ địa phương: “mần”, “mần du”, “ngó”, “chả”, “ceng”, “chi”, “mô”…). Đọc Hồ Minh Tâm, thấy cảm xúc chủ đạo là hài hước, cười cợt, xem mọi sự chẳng có gì nghiêm chỉnh. Biến cái bi thành cái hài là một đặc sản của anh. Có thể gọi đây là thái độ hậu hiện đại được chăng, khi đứng trước những đổ vỡ thực của thực tại, nhà thơ không khóc than, mà trái lại, “chua chát reo cười”:
“ôi thương thời đất nước Đại Ngu!/ (đoạn này chả liên quan gì cả)/ ông ấy cũng đang nói thật/ thật đấy…/ chỉ có chúng ta chỉ có nhâng dzâng ta mới làm nên điều kỳ dzĩ ấy/ lông ngỗng xưa là điều tầm bậy (tầm bậy hơn cả Thánh Gióng về trời vui thú điền viên)” (9400000000000 hạt mưa).
“Có đôi câu vắng lắm/ con tắc kè tắc giọng giữa đêm không/ ngủ đi Tâm!/ ta ru đêm/ từ tiếng hoài thai quẫy động/ chưa chết được đâu khi còn thiết buồn lòng/ ngủ ơi hình hài/ mưa sẽ về thay mươi ngón dại/ nắng sẽ về đồng mộ âm u/ tiếng ru đã sờn/ nghe cái buồn đã cũ/ thương con chó nhà ai, hú vọng gọi trăng/ ngủ đi/ ơi con chó nhà ai!” (Ngủ đi con chó nhà ai).
Thứ năm, Hồ Minh Tâm thường lạ hóa văn bản thơ của mình theo một cách “quái đản”. Hơn lúc nào hết, anh coi việc thiết tạo thơ như một “dòng tự sự lảm nhảm” là một khoái thú vô tận trong cuộc chơi thơ:
“chiếc kim giây gõ tiếng cuối cùng/ chiếc kim giây gõ tiếng cuối/ chiếc kim giây gõ tiếng/ chiếc kim giây gõ/ chiếc kim giây/ chiếc kim/ chiếc ki/ chiếc k/ chiếc/ chiê/ chi/ ch/ c” (không còn gì).
“Alo/ alo/ tôi nói/ tôi đang nói/ tôi sẽ nói…/ nói gì?/ đang nói gì?/ sẽ nói gì?/ vọng âm từ khu rừng thâm u/ tôi hiểu - đó là một lời đáp/ 9. Dgfvdbdjkgkl/ 10. Dtgdjshfklsfjs/ 11.ndcbjdy24ỳhdsknvkdj7839489bnscbdsfnkfcvbccvcmvnmg ydkkhỉwecjbfhjfkf+-x/!?!” (Tùy thích có mức độ).
Hồ Minh Tâm viết cái anh cảm thấy/cho là như thế, muốn/thích nó như thế. Từ bản chất, thơ anh khước từ việc phân tích lô-gic lí tính. Và khi thơ ca bị dạt ra bên lề của sân chơi văn hóa đương đại, tính trò chơi của nó càng nổi bật. Khi đó, nó dường như phát huy được hết vai trò của một hiện tượng ngoại vi. Nếu đọc theo cách truyền thống, thi ca nói về, hay biểu đạt một cái gì đó xem ra khó thỏa mãn ở trường hợp này. Với ý nghĩa đó, Hồ Minh Tâm và một số không nhiều, đã biến thơ thành một trò chơi, một cách hành ngôn vượt ra khỏi những chuẩn mực và tư duy thơ truyền thống. Không phải ngẫu nhiên, đọc Hồ Minh Tâm, người ta không tránh khỏi cảm giác ngờ vực về tính khả tín của ngôn từ. Trên một ý nghĩa nào đó, cuộc chơi thơ của Hồ Minh Tâm là một nỗ lực vượt qua chướng ngại của thói quen và những luật lệ oái oăm để thiết tạo một không gian đặc thù, có xu hướng tách hoàn toàn khỏi thực tại. Trò chơi này, dĩ nhiên, đòi hỏi nhiều điều kiện từ người chơi: sự dấn thân, liều lĩnh, dũng cảm và nhiều thách thức khác. Trò chơi thơ ca không thu nhận những người yếu bóng vía. Ở một góc độ nào đó, Hồ Minh Tâm tiếp tục con đường làm “biến dạng” cấu trúc thơ truyền thống, làm thay đổi con chữ, con âm. Tất nhiên, việc kiến tạo một thế giới thơ đặc thù, riêng có hẳn không dễ dàng gì, vì nó động chạm đến một cộng đồng viết và đọc đang chơi theo quán tính, hoặc theo luật chơi phổ quát. Thơ Hồ Minh Tâm luôn ít người đồng hành, là bởi lí do như thế.
Tất nhiên, chẳng có trò chơi nào hoàn toàn tự do.
Như trên đã nói, thơ Hồ Minh Tâm như một dạng thức tự sự, cảm xúc dồn nén bên trong. Cảm xúc trong thơ Hồ Minh Tâm, trên thực tế không biến mất, mà được giấu ẩn, theo một cách riêng. Nói theo cách khác, anh “tự sự về cảm xúc” bằng thơ, qua những “càm ràm thơ” như một thú vui ngôn ngữ mà ở đó, sáng tạo đôi khi gần như là hành hạ. Thơ Hồ Minh Tâm chọi thơ sến, thơ tình, thơ truyền thống, cố ý phá vỡ luật lệ, đập vỡ những ảo tưởng về thơ. Ở đây, ngôn ngữ không đứng yên, nó giải kiến tạo thế giới, đồng thời kiến tạo nên thế giới riêng của nó. Và như thế, nó có một ý nghĩa riêng.
Như phần lớn các nhà cách tân trong bối cảnh đương đại, Hồ Minh Tâm đủ trầm tĩnh (và cả thỏa hiệp) để không đẩy cuộc chơi đến mức cực đoan. Thơ anh, do thế, vừa có xu hướng dạt sang lề vừa có xu hướng lấn vào tâm. Anh không giải thoát, buông xả tận cùng ngôn ngữ mà vẫn có sự tiết chế. Đằng sau con chữ, không khó để nhận ra, một phần trong số đó là nghĩa, là thế giới cô đơn, thế giới của một người thơ giàu xúc cảm. Không phải ngẫu nhiên, Hồ Minh Tâm vừa làm thơ đăng Facebook, đăng báo mạng, vừa đăng báo giấy và tham gia các cuộc thi thơ. Như thường lệ, thơ anh cũng có ba đối tượng trữ tình chủ chốt: mẹ, cha, và quê hương. Và dầu được cá nhân hóa ở mức rất cao, thì vẫn là trạng thái trữ tình có từ trong cổ mẫu. Thế nên, không lạ khi thấy Hồ Minh Tâm viết những câu thơ thế này:
“xong việc ở đồng sơn chúng tôi kéo nhau về đồng hới/ bàn nhau quán chanh quán bưởi/ làm đôi ba ly mừng công việc trôi/ no nê rượu mồi trên bàn mỗi món còn dôi ra chừng chục bạc/ tôi nhớ cha tôi…/ nhớ một chiều hè cả thềm quê ráng đỏ/ từ huyện, cha tôi mua một túm đồ ăn, khấp khởi mang về/ giữa những đôi mắt ngạc nhiên đen của chị em tôi/ nụ cười cha là một đốm trắng/ cha tôi nghèo/ bạn bè cha tôi nghèo/ nghèo!” (Bài tình cho Đồng Sơn).
“honda-honda-honda cuốn dòng hối hả/ chằng néo quê gần quê xa/ yên xe nặng tiếng thở dài của cha/ cồng kềnh quầng mắt đêm của mẹ/ mưa tóe tung lưng tròng bé dại/ nín đi con/ mình sắp đến nhà bà/ …/ và đêm/ khép mắt nghe thành phố trên cao/ đồng vọng tiếng rao/ lạc chiều rỗng ruột/ ơ kìa, con cún con ngơ ngác/ nhà đâu mà về?/ …/ thế giới ngổn ngang/ con chẳng thể mang hết về nhà/ mẹ ạ/ trời xa và rộng quá/ …/ ngủ đi con, sớm mai mẹ luộc rau non!” (Vài mảnh ghép lẹm mùa).
Cũng không ít lần, thấy Hồ Minh Tâm ngoại hiện hóa tâm tư qua con chữ. Sự ẩn giấu, dồn nén cảm xúc đâu đó lại chợt bùng lên, như dòng điện năng muôn thuở trong thơ. Đó là khi anh viết về những “vùng đau”:
“Tôi không chắc một người lạ vừa thập thò cửa lạ/ tôi không chắc trăng đáy sông khuya này sáng quá/ tôi không chắc bóng một đoàn quân lỉnh kỉnh/ súng ống vừa đi qua/ .../ Tôi nghe tiếng guốc đêm dồn dập/ gần lại xa/ mặt sông con cá quẫy/ … mẹ tôi bưng đèn/ ngó nghiêng triêng gióng/ bốn giờ sáng gánh khế về chợ Hạ/ đổi mớ cá long tong/ à ơi ngày dài tháng rộng/ tôi nghe trên mái nhà mưa vấp/ bà tôi hạ thấp mái rèm/ lem lem tiếng đoàn tàu trườn qua/ Tôi nghe tiếng tàu cau đầu hồi vừa rụng sau nhà/ lưng mo cau thì cong cong/ bụng mo cau thì rồng rộng/ trăng rưới đều hai phía/ lưng thì vàng/ bụng thì trắng/ chẳng biết màu thật của trăng màu chi/ con tắc kè con giật mình/ tiếng mỏng như sợi chỉ/ con mèo khoang sè sẹ lén trăng đi/ Giọng mẹ tôi ngái ngủ vọng ra:/ con ơi, hay là cha con về?” (Đêm vọng).
“Cây thị đầu làng mình thiêng lắm/ đêm đứng trăng là lại có một con chim lạ bay về/ đậu trên cành mỏng nhất/ hót: bắt cô trói cột/ rồi bay/ Chị Vẹm phát điên, họ đồn chị ấy lạc chợ lạc đường/ khi nhận tin chồng bị bom vùi đêm trăng náu
mấy năm sau/ anh Vẹm về/ cây thị đầu làng không còn cành mỏng/ lâu lâu lạc đêm trăng rộng/ đâu đó tiếng chim quen vọng về/ …/ Mẹ tôi kể/ anh Vẹm về làng/ không người thân, không vợ, không nhà/ rồi anh rời làng đi xa/ nghe đồn gặp người điên điên sống cùng chái chợ/ ngày trái mưa/ ngày nắng trở/ anh Vẹm vẫn cứ alô alô/ khó khăn khắc phục nghe rõ trả lời/ alô alô bắt cô trói cột/ nghe rõ trả lời/ bọt biển lại vỡ bờ/ cuốn trôi bao cơn co giật… Hai người ấy thành duyên/ sống tựa nhau qua ngày dày đêm mỏng/ cơn động kinh/ cuối cùng/ nghe đâu .../ anh alô alô alô/ rồi trại giọng: Vẹn ơi/ Mẹ tôi bây giờ quên quên nhớ nhớ/ cây thị đầu làng cũng không còn nữa/ tiếng chim đêm ấy giờ bay đâu?” (Mẹ kể).
Hồ Minh Tâm cho “viết là để được sống lẹm ra ngoài đôi chút”. Thơ với anh, “đôi khi là bóng mình, là gì đó từ trời thả xuống, là cái xanh của cỏ, là úa tàn của một cánh hoa”. Trong cuộc chơi ít nhiều rủi ro ấy, “nếu không nhặt được thơ, thì cũng tường tận vài rơi rụng”. Với thơ, Hồ Minh Tâm đứng như một kẻ bên lề, đôi khi dường như lại muốn nhập vào trung tâm để tận tường cảm xúc. Nhưng dù đứng ở đâu, bước đi như thế nào thì “những kí tự thơ” của anh đã “nhảy ra khỏi lòng trang giấy”, phá vỡ những “ý nghĩ vuông”, để sống một cuộc đời tự do.
Và thơ ca đương đại đã có một gương mặt Hồ Minh Tâm như thế.
P.G.T
(TCSH434/04-2025)
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH