Tuổi Canh Tý viết về con Chuột

15:51 03/03/2020

PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.

Ảnh: internet

SBC là săn bắt chuột1 được Nhà xuất bản Trẻ ra mắt lần đầu năm 2011, tái bản ba lần vào các năm 2012, 2014 và 2016. Nội dung cuốn sách được bố cục thành các chương, tên mỗi chương lại khuôn định phạm vi trong một loại người, như “ai quá lứa lỡ thì”, “ai báo chí văn thơ”, “ai giàu xổi”, “ai làm luật”, “ai giáo sư”… Không ít độc giả dễ cảm tưởng đây là một văn bản trào phúng mượn chuột nói người, hướng ngòi bút phê phán vào bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Nếu xem cuộc chiến giữa người và chuột trong tác phẩm như một trục nguyên cớ để từ đó tác giả mở ra các mảng hiện thực đời sống và con người, thì cách hiểu trên không sai. Và quả thực, đó cũng là một trong những chiến lược tự sự quen thuộc của Hồ Anh Thái. Tuy nhiên, với cách hiểu ấy, khó đánh giá hợp lý vai trò của hệ thống nhân vật chuột trong tác phẩm. Tôi đề xuất một cách đọc khác có thể khắc phục hạn chế nêu trên, đồng thời mở ra những lớp nghĩa mới từ góc nhìn của phê bình sinh thái. Lúc này, cảm hứng phê phán xã hội vẫn được thừa nhận, nhưng với tư cách là chất liệu cho một tầng nghĩa cao hơn.

Từ mã văn hóa, hình ảnh con chuột đã xuất hiện bên cạnh con người từ thuở sơ khai với tư cách một biểu tượng lưỡng tính, đa trị. Trong văn hóa Hy Lạp cổ, thần Apollon còn có tên khác là Sminthée, một chữ phái sinh mà dạng thức gốc của nó nghĩa là con chuột. Tính hai chiều của cái tên này được thể hiện qua quyền năng của vị thần, vừa là đấng bảo vệ mùa màng, vừa là thế lực lan truyền dịch hạch2. Ở nhiều nền văn hóa lớn khác trên thế giới, các cực giá trị đối lập của biểu tượng chuột như phá hoại - có ích, nhục thể - thiêng liêng, đáng khinh - đáng phục, đáng sợ - vui tươi… thường xuất hiện biệt lập qua những mẩu chuyện được lưu truyền rải rác trong thư tịch cổ và con đường truyền khẩu dân gian. Hồ Anh Thái gom tất cả nét nghĩa ấy vào tác phẩm, nhưng tái cấu trúc và bổ sung thêm sắc thái mới. Như nhan đề, cuốn sách kể về chuyện… săn bắt chuột, đúng hơn là cuộc chiến giữa chuột và người, mà căn nguyên là motif quen thuộc, loài vật báo oán. Để trả thù nhân loại, Chuột Trùm phát động dị năng: ai nhìn vào mắt nó sẽ rơi vào trạng thái mất trọng lượng, cơ thể như một quả bóng bay lơ lửng lên trời. Căn bệnh này có thể lây lan trở thành đại dịch. Muốn giải cứu nạn nhân, chỉ có cách duy nhất là giết chết Chuột Trùm. Cuộc chiến bắt đầu. Đôi mắt Chuột Trùm có hiệu năng như một lời nguyền, nhưng đáng chú ý, đó luôn là đôi mắt u sầu.

Đôi mắt trở thành một tín hiệu thẩm mỹ, và để giải mã, cần khám phá được cách thức mà Hồ Anh Thái đã tái cấu trúc các nét nghĩa sẵn có của biểu tượng chuột trong văn hóa dân gian. Lúc đầu, hình ảnh con chuột hiện lên thật kinh dị. Đàn chuột nhung nhúc hàng trăm con, được tổ chức như một vương quốc thu nhỏ. Mỗi lần chúng di chuyển, người ta cảm giác như một dòng sông chuột. Có những cá thể to như chó săn nhờ rỉa thịt tử thi ở nhà xác bệnh viện, rỉa thịt thai nhi bị vứt ở các bãi rác y tế. Có những con đã thành tinh, có khả năng báo mộng cho người, hoặc giết người bằng phép thuật… Nếu dừng ngang đó, hành trình diệt chuột chỉ là cuộc phiêu lưu đậm chất huyền ảo, như một hướng sáng tác khá nổi ở nước ta trong mấy năm gần đây. Thế nhưng, cảm nhận ban đầu ấy chỉ nằm trong dụng ý của Hồ Anh Thái nhằm đánh lạc hướng độc giả. Qua những biến cố của cuộc chiến, người đọc chạnh lòng nhận ra, thế giới loài chuột còn đầy ắp phẩm chất cao đẹp, đáng kể nhất là tình đồng loại và đức hy sinh. Với nhà văn, đó hoàn toàn không phải quá trình phục thiện theo chuẩn mực đạo đức của con người, mà là phẩm chất vốn có tự nhiên của con vật.

Bức tranh thế giới loài chuột lại luôn được đặt trong thế song hành, tương phản với thế giới nhân loại mà tác giả cố ý phơi bày ở những chiều kích mục nát, u tối của đủ hạng người. Vợ chồng nhà chuột chung thủy sắt son thì Giáo Sư hăm hở hùng hục bạ đâu húc đấy. Vua tôi nhà chuột gắn kết bằng nghĩa bằng tình thì bè lũ Cốp, Kễnh, Đại Gia cấu kết bằng quyền bằng lợi. Chuột Trùm đổi mạng cứu hiền thê thì Luật Sư đẩy mẹ ruột từ ban công sân thượng để tiếm đoạt gia sản… Sự đối sánh ấy không hẳn chỉ để toát lên vẻ chua chát về tình trạng thoái hóa đạo đức khiến con người trở nên thua kém loài vật. Chủ yếu, đó là phản đề cho thứ ý niệm mà các nhà phê bình sinh thái gọi là chủ nghĩa nhân loại trung tâm. Nó đánh thẳng vào tín điều cho rằng con người là trung tâm vũ trụ, là kết tinh của vẻ đẹp tự nhiên.

Con người hiện đại đang vi phạm những chuẩn mực làm người, nhưng ngay bản thân những chuẩn mực ấy, không phải điều nào cũng thật sự phù hợp với lý tưởng của tự nhiên. Chúng ta nhớ lại, sự kiện đầu tiên làm nảy sinh lý do cuộc chiến: bãi lầy mà nhân vật Đại Gia đang cho người tiến hành san lấp để xây dựng chuỗi căn hộ cao cấp vốn là nơi cự ngụ của đàn chuột do Chuột Trùm thống lĩnh. Hồ Anh Thái mượn tích con rắn báo oán, thay rắn bằng chuột, tạo thành nguyên cớ cho truyện kể. Nhưng nếu trong tích cổ dân gian, hiện tượng kết oán có thể chỉ như một tình huống ngẫu nhiên dẫn đến kết cục oan nghiệt cho các số phận, thì khi được đưa vào tiểu thuyết, nó trở thành một sự kiện biểu hiện ý thức sinh thái hiện đại: đồng nghĩa với sự mở rộng không gian sinh tồn của nhân loại là sự tranh cướp không gian sinh tồn của rất nhiều giống loài khác. Sự phát triển của văn minh nhân loại đang xa dần con đường hòa hợp với thiên nhiên. Cạnh tranh để sinh tồn là khó tránh khỏi, nhưng nên ý thức được, hòa hợp để sinh tồn mới là chuẩn mực tự nhiên cao nhất.

Ngay cả những cảm giác rùng rợn về bầy chuột đoạn đầu tác phẩm cũng cho thấy một sự áp đặt cái nhìn phiến diện của con người lên thiên nhiên. Hồ Anh Thái đã giải cấu trúc sự áp đặt ấy. Chúng ta ghê tởm những con chuột ăn thịt người mà quên rằng ai đã “nuôi” chúng. Chúng ta kinh sợ những con chuột to bằng con chó mà quên rằng rất nhiều biến thái kỳ dị của thiên nhiên là do con người gây ra. Đã có lời đồn về những con chuột to bằng con lợn do nhiễm phóng xạ trong thảm họa Chernobyl.

Ánh mắt nguyền rủa của Chuột Trùm lên con người không thuần túy chỉ một ý chí trả thù, hơn thế, đó là hình phạt cho những vết thương vô phương cứu chữa mà con người vẫn đang từng ngày khoét sâu lên thân thể Mẹ Tự Nhiên. Chuột Trùm là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh và thân phận của tự nhiên. Do đó, ánh mắt của nó không đanh ác, mà u sầu. Thiên nhiên trừng phạt con người bằng chính cái chết của thiên nhiên. Sắc thái u sầu là một dấu ấn sáng tạo của Hồ Anh Thái cho hình tượng con chuột trong văn hóa và văn học Việt Nam.

Kết thúc tác phẩm, Chuột Trùm bị giết, lời nguyền được phá bỏ. Con người lại tiếp tục chiến thắng trong một trận chiến tranh giành không gian sống với tự nhiên. Nhưng chốt khung ở hai đầu truyện kể là trận lụt mở màn và trận hạn hán kết thúc, gợi nhớ những đại thảm họa khủng khiếp từng được nhắc đến trong truyền thuyết của rất nhiều tôn giáo và dân tộc trên thế giới, nhằm răn đe tội lỗi con người. Chiến thắng nhất thời ấy chỉ là sự quẫy đạp trong phút chốc của nhân loại trước bờ vực diệt vong không còn xa nữa.

Nếu Hồ Anh Thái là cao thủ Trong trò chơi cấu trúc văn chương, thì SBC là săn bắt chuột là tiểu thuyết thành công bậc nhất của ông ở phương diện này. Nó kết hợp hai kiểu cấu trúc truyện kể mà trước đó Hồ Anh Thái thường sử dụng. Kiểu thứ nhất tạm gọi là song hành - đồng đẳng như trường hợp Đức Phật, nàng Savitri và tôi (2007). Tác giả tạo thành hai tuyến truyện kể phát triển song song, soi chiếu vào nhau để bật lên ý nghĩa, không có sự lệ thuộc một chiều của tuyến này vào tuyến kia, và không có tuyến này thì sự hiện diện của tuyến kia trở nên vô nghĩa. Kiểu thứ hai là phân mảnh - phụ thuộc như trường hợp Cõi người rung chuông tận thế (2002), hoặc gần đây có cuốn Tranh Van Gogh mua để đốt (2018). Một tuyến đóng vai trò trục chính, từ đó tỏa ra các tuyến truyện kể liên quan đến từng nhân vật. Trục chính được tạo dựng dựa trên một nhân tố bí ẩn theo kiểu của truyện trinh thám, neo giữ toàn bộ các mẩu chuyện nhỏ như những mảnh ghép về thế giới hiện thực. Mỗi mẩu chuyện lại gần như đều có năng lực “độc lập tác chiến”. Đây là cách Hồ Anh Thái làm chủ kỹ thuật phân mảnh. Về chiến lược tự sự, SBC là săn bắt chuột thuộc về kiểu cấu trúc thứ hai, nhưng xét về tương quan vai trò giữa tuyến chuột và tuyến người trong việc bộc lộ ý nghĩa, nó lại thuộc về kiểu thứ nhất. Việc tạo thành một cấu trúc như vậy, nghe có vẻ đơn giản, nhưng khi được cụ thể hóa trong sự hợp nhất với các yếu tố cấu thành chỉnh thể nghệ thuật thì rất dễ đẩy tác giả lạc lối trong mê trận của chính mình. Hồ Anh Thái thành công, bởi đã tạo ra được một văn bản truyện kể theo đúng tôn chỉ mà cá nhân ông theo đuổi: logic, sáng rõ và lôi cuốn.

Năm mới Canh Tý 2020 đã đến. Vậy là Hồ Anh Thái đã đi hết một vòng hoa giáp nhân sinh. Với văn chương, gia tài của ông đã thật đáng ngưỡng mộ. Nhưng qua vài tác phẩm gần đây, tôi dự cảm, một chặng mới trong hành trình sáng tạo của ông sắp sửa bắt đầu. Ông đã gác bỏ bổn phận của một công chức để quy tụ nhiệt huyết và tinh lực cho những chuyến đi, không chỉ trên nẻo đường của chữ. Còn đi còn viết. Viết, như một phương cách hiện hữu giữa đời…

P.T.H.L  
(TCSH372/02-2020)

--------------------
1. Hồ Anh Thái (2011), SBC là săn bắt chuột, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
2. Jean Chevalier & Alain Gheerbrant (2015), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (tái bản lần thứ 3),  Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng. 




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH