Tư liệu quý về Trường Quốc Học Huế

15:12 07/05/2021

LÊ VĂN THUYÊN  

Trường Quốc Học Huế (QH Huế) là một trong những trường trung học ra đời sớm nhất ở Việt Nam, chỉ sau Collège Chasseloup-Laubat thành lập năm 1877 (nay là trường trung học Lê Quý Đôn, TP HCM) và Collège de My Tho thành lập năm 1879 (nay là trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, TP Mỹ Tho).

Cổng trường Quốc Học Huế thập niên 1920 - Ảnh: kienthuc.net.vn

Trường QH Huế được thành lập năm 1896 theo Chỉ dụ của vua Thành Thái ban hành ngày 23 tháng 10 năm Thành Thái thứ 8 (17/9/1896) và Nghị định của Toàn quyền Đông Dương A. Rousseau ký ngày 18/11/1896.

Nghiên cứu sử liệu về trường QH Huế, thầy Phan Khắc Tuân, vị hiệu trưởng cuối cùng của trường trước năm 1975, trong bài viết ngắn “Ngày thành lập trường Quốc Học Huế” (bản vi tính, chưa công bố, thầy Phan Khắc Tuân tặng tôi năm 2012), cho biết: Trong Đặc san Ái hữu Quốc Học, 1971, tác giả Vu Hương (là bút danh của cụ Ưng Thuyên, thân phụ cố họa sĩ Bửu Chỉ) đã viết: “…tôi tìm được ba văn kiện về trường Quốc Học trong Bulletin Administratif de l’ Annam (Trung kỳ công báo) do Tòa Khâm sứ ở Huế xuất bản năm 1896, quyển sau cùng. Đó là: 1 Nghị định của Toàn quyền Đông Dương thành lập trường Quốc Học. 1 Nghị định của Khâm sứ Trung kỳ và 1 Đạo dụ của vua Thành Thái ấn định những thể thức và chi tiết về việc thi hành nghị định căn bản trên đây (…) ngày 23/12/1969, tôi có đến Tòa Đại biểu ở Huế để tìm lại quyển này với mục đích xuất trình những điều khoản chính yếu của ba văn kiện về trường Quốc Học, nhưng tôi đã thất vọng: quyển ấy đã biến mất, có lẽ ngay sau khi tôi thôi phục vụ tại Tòa Đại biểu!”. Còn Quốc sử quán triều Nguyễn, trong cuốn Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên (Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ xuất bản tháng 10/2011), trong quyển 8 (tr. 264 - 267) ghi chép các sự việc trong năm Bính Thân, Thành Thái thứ 8, có chép việc “đặt trường Quốc Học chữ Tây” như sau: “Tháng 12. Bắt đầu đặt trường Quốc Học chữ Tây. Trước là Khâm sứ Brière bàn về các khoản sinh viên Quốc tử giám nên học thêm chữ Tây, phép thi nên thêm phần thi chữ Tây cùng quy thức học tập ở Ty Hành Nhân nên đổi định thế nào. Bèn đặt hội đồng cùng bàn, kế nghị định ban dụ thi hành. Lời dụ nói “Học không có thầy nhất định, cốt phải học rộng. Việc dạy ắt phải lập cho sự học được rộng. Đại khái ngoài cái học sáu kinh còn có Lục thư, việc giao thông giữa các nước trọng chuyện từ lệnh, duy việc học có rộng thì sau có thể theo phương mà dùng cho phù hợp, việc dạy có chuyên thì sau có thể tinh nghiệp mà thành người tài năng, đó đều là việc cần thiết hiện nay không thể coi thường. Nước ta từ Quốc tử giám ở kinh sư tới các tỉnh phủ huyện không đâu không học Nho học, đã tinh tường lại đầy đủ, nhưng về cái học Thái Tây vẫn còn nhiều khuyết điểm. Mới đây Cơ mật viện tâu với Tổng thống Đông Dương Toàn quyền đại thần nước Đại Pháp phù Nam vương Rousseau tới kinh và Trú kinh Khâm sứ đại thần Hộ Nam công Brière họp bàn đặt trường học chữ Tây, chiểu nguyên các khoản mà các viên hội đồng Phó Công sứ nguyên sung quản lý tòa sứ Bác Xích, Phó Công sứ sung Hội biện Lại chính Bùi Như làm Chưởng hội, Thương biện Cạnh Tê, Thượng thư bộ Hộ Trương Như Cương, Thượng thư bộ Lễ Huỳnh Vĩ, Thương biện Ngô Đình Khả bàn định chắc đã ổn thỏa phù hợp. Nay chuẩn đặt trường ấy, gọi là trường Quốc Học để dạy tiếng và chữ Đại Pháp, tham khảo dạy thêm chữ Hán (…). Tờ Dụ này chuẩn sao ra cho quý Toàn quyền đại thần tuân duyệt… Đến lúc ấy Toàn quyền đại thần đưa công văn qua bàn định các khoản (Khoản 1: Thiết lập trường học ở kinh, gọi là trường Quốc Học, chuyên dạy chữ Hán và tiếng Đại Pháp, cũng không nên bỏ hết chữ Hán… Khoản 15: Nghị định này do Tòa Khâm sứ và Cơ mật viện chiểu lời nghị thi hành). Bèn lấy Thái thường tự khanh Ngô Đình Khả làm Chưởng giáo, định rõ từ trung tuần tháng giêng năm sau khai trường”. (Nguồn: Thầy Phan Khắc Tuân, bài đã dẫn).
 

Ảnh 1
Ảnh 2
Ảnh 3
Ảnh 4


Năm 1971, nhóm thực hiện Đặc san Ái hữu Quốc Học đã cho in toàn văn hai bản dịch Việt ngữ Chỉ dụ ngày 23/10/1896 của vua Thành Thái và Nghị định ngày 18/11/1896 của Toàn quyền Đông Dương (tr. 5 - 10). Theo thầy Phan Khắc Tuân, “Trước năm 1975, hai bản dịch này được khắc trên hai bảng gỗ khổ lớn sơn son thếp vàng treo trong phòng khánh tiết của trường Quốc Học (…). Hai bản dịch quốc ngữ không ghi tên người dịch và cũng không cho biết bản dịch Dụ của vua Thành Thái dịch từ bản gốc chữ Hán hay từ bản tiếng Pháp (…). Tôi may mắn liên lạc được với anh Cao Huy Thuần ở Paris, anh Cao Huy Thuần lại nhờ được một người bạn ở Aix-en-Provence tìm kiếm chỉ tìm được hai văn kiện, rồi sao chụp ngày 02/12/2011: 1/ Dụ của vua Thành Thái (Ordonnance Royal) ngày 23/10/1896 (ảnh 1). 2/ Nghị định của Toàn quyền Đông Dương (Arrêté du Gouverneur Général de l’ Indochine ký ngày 18/11/1896”, (ảnh 2). (PKT, bđd(1).

Những tư liệu nói trên về lịch sử trường Quốc Học thuộc loại quý hiếm. Ngay từ khi ra đời, Quốc Học là tên chính thức được ghi trong các văn kiện thành lập trường (Tên đầy đủ là Quốc gia Học đường). Cho đến nay chưa thấy công bố ở đâu Chỉ dụ ngày 23/10/1896 của vua Thành Thái bằng chữ Hán. Riêng hai bảng gỗ khắc hai bản dịch Chỉ dụ của vua Thành Thái và Nghị định của Toàn quyền Đông Dương hiện nay không còn được treo trong trường QH Huế nữa. Các hiện vật quý hiếm đó có lẽ đã bị loại ra khỏi Trường Quốc Học từ sau ngày thống nhất đất nước. Đó là hai bảng gỗ lớn có kích cỡ giống nhau (1m60 x 0m77), sơn son thếp vàng, khắc bản dịch Việt ngữ hai văn kiện quan trọng nói trên với nét chữ rất đẹp (ảnh 3 & 4). Gần đây, tôi tình cờ phát hiện hai hiện vật độc đáo ấy được lưu giữ tại tư gia một người sưu tầm cổ vật ở Huế. Hình như nhà sưu tầm cổ vật ấy không có ý định bán hai bảng gỗ đó ra khỏi Huế! Dù sao, tôi cũng thầm cảm phục lương tâm văn hóa của anh ấy đối với di sản văn hóa Huế.

Không rõ Ban giám hiệu trường Quốc Học Huế hiện nay (và cả những người cấp trên của họ), khi biết hai cổ vật vô giá đó hiện vẫn còn được lưu giữ ở Huế, họ có muốn “chuộc” nó về lại cho trường Quốc Học không, như “Châu về Hợp Phố”?

L.V.T
(Cựu học sinh Quốc Học Huế)  
(SHSDB40/03-2021)

-------------------------------
(1) Không hiểu vì sao trong bản sao chụp Nghị định số 1639 của Toàn quyền Đông Dương không dùng chữ Arrêté Gouverneur Général mà dùng chữ Cabinet Gouverneur Général? (nv).




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tối 24/4, Sở Văn hóa thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai đã tổ chức lễ công bố Quyết định đưa Sử thi Bahnar vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Buổi lễ diễn ra tại Bảo tàng tỉnh (TP Pleiku, Gia Lai).

  • Ngày 28.1, UBND TP.Hội An (Quảng Nam) cho biết đã giao Trung tâm quản lý bảo tồn di sản văn hóa TP triển khai tu bổ, tôn tạo một số giếng cổ tại các phường: Minh An, Cẩm Phô trong năm 2015.

  • Từ lâu có một cuốn Lục Vân Tiên mà các nhà nghiên cứu ở miền Nam đánh giá là bản Nôm cổ nhất nhưng bị thất lạc. Gần đây, trong một lần viếng chùa cổ Long An, tình cờ cụ Nguyễn Quảng Tuân đã phát hiện, mang về hiệu chỉnh và công bố. Cũng với tình yêu vốn quý cổ truyền dân tộc, ông đã lặn lội khắp nơi trong và ngoài nước để sưu tầm, nghiên cứu, công bố nhiều tư liệu giá trị, đặc biệt là hàng loạt bản cổ khác nhau về Truyện Kiều.

  • Sáng 5/1 tại Ninh Bình, UBND tỉnh Ninh Bình chính thức công bố kế hoạch Lễ đón Bằng của UNESCO ghi danh Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới diễn ra ngày 22-24/1 tới.

  • HỒ VĨNH

    Sau một thời gian khảo sát thực tế, sáng 3/12/2014 Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế phối hợp với Sở Giao thông Vận tải Thừa Thiên Huế dựng lại bia đá “Đông Gia Kiều” ở phía đầu cầu Đông Ba theo hướng như bia đá đã dựng trước đây.

  • Thông tin từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (ngày 17/12) cho hay cơ quan này đã có quyết định xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với 12 di tích.

  • Phố cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn ở Quảng Nam được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới đến nay đã tròn 15 năm.

  • Những tư liệu ảnh của Viện Viễn đông bác cổ Pháp (EFEO) lần đầu công bố tại VN cho thấy nhiều cứ liệu lịch sử theo thời gian đã bị tiêu tan.

  • Ngày 1/12, thành phố Tel Aviv của Israel đã chính thức được Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là thành viên mới nhất trong mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO dành cho hạng mục Nghệ thuật Truyền thông.

  • LTS: Ông Pie Pisa (Pierre Pichard) là kiến trúc sư, chuyên gia nghiên cứu trùng tu di tích cổ của Unesco. Ông dã đến Huế 2 lần (lần thứ nhất vào năm 1978, ở lại 3 tuần làm bản tường trình dài về hiện trạng di tích Huế cho Unesco; lần thứ hai vào năm 1985). Bài dưới dây do kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn lược ghi ý kiến của ông phát biểu trong dịp đến Huế năm 1978. Đầu đề do chúng tôi đặt.
    S.H

  • Kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (gọi tắt là Công ước 2003) đã khai mạc ngày 24/11 tại trụ sở Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) tại Paris, Pháp.

  • Viện Hàn lâm khoa học xã hội VN vừa có Văn bản số 2116/KHXH gửi Thủ tướng Chính phủ về việc báo cáo niên đại, tên gọi, giá trị và đề xuất phương án bảo tồn di tích tâm linh đặc biệt thời Lý ở lô E.

  • VÕ VINH QUANG

    Trong nỗ lực phục dựng các di tích đặc biệt trong quần thể di tích Cố đô Huế, vừa qua, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô đã đầu tư 24,8 tỷ đồng trùng tu di tích lầu Tàng Thư. Đây là một tín hiệu Cực kỳ đáng quý, có tác dụng không nhỏ đối với việc xiển dương vị thế của vùng đất Cố đô cũng như góp phần giáo dục truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc.

  • Cho tới giờ, sau 4 lần UNESCO đề nghị phía VN giải trình về quản lý, bảo tồn, vịnh Hạ Long vẫn nằm trong danh sách bị khuyến cáo. Huế đã thoát án sau nhiều năm cố gắng. Làm sao để không rơi vào, hoặc thoát khỏi danh sách đen?

  • Tồn tại 143 năm (1802-1945), triều Nguyễn đã để lại nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô giá; trong đó, hệ thống di tích Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế… đã được công nhận là di sản thế giới. Gần đây nhất, Châu bản triều Nguyễn cũng được ghi danh vào chương trình ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO.

  • Ngày 13.9, quần thể khu di tích nhà Trần ở Đông Triều, Quảng Ninh sẽ nhận quyết định công nhận di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể này bao gồm 14 cụm di tích: đền An Sinh, lăng Tư Phúc, đền Thái, Thái Lăng, Mục Lăng, Ngải Sơn Lăng, Phụ Sơn Lăng, Nguyên Lăng, Đồng Hỷ Lăng, chùa Ngọc Thanh, chùa Ngọa Vân, chùa Tuyết, chùa Quỳnh Lâm và chùa Hồ Thiên.

  • Hội đồng Di sản quốc gia vừa công nhận 4 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Quảng Nam gồm: nghề dệt thổ cẩm và vũ điệu tâng tung da dá của đồng bào Cơ Tu; nghệ thuật trang trí trên cây nêu (ngoài sân); bộ gu (trong nhà) của đồng bào Co và lễ hội rước cộ Bà Chợ Được ở xã Bình Triều, H.Thăng Bình.

  • Các địa phương cần thống nhất đầu mối đơn vị quản lý nhà nước về di tích về các phòng di sản văn hóa thuộc các sở văn hóa, thể thao và du lịch. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương chủ trì việc quản lý và phát huy giá trị di tích, phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương.

  • Làng đá mỹ nghệ Non Nước nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng vừa được Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

  • Theo nhạc sỹ-nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan, sau 5 năm được Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào “Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại,” từ việc thiếu vắng đội ngũ kế thừa, ca trù đã hình thành được một đội ngũ nghệ sỹ kế cận khá đông đảo. Đây là một trong cơ sở quan trọng để loại hình nghệ thuật này trở thành “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.”