LÊ VĂN THUYÊN
Trường Quốc Học Huế (QH Huế) là một trong những trường trung học ra đời sớm nhất ở Việt Nam, chỉ sau Collège Chasseloup-Laubat thành lập năm 1877 (nay là trường trung học Lê Quý Đôn, TP HCM) và Collège de My Tho thành lập năm 1879 (nay là trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, TP Mỹ Tho).
Cổng trường Quốc Học Huế thập niên 1920 - Ảnh: kienthuc.net.vn
Trường QH Huế được thành lập năm 1896 theo Chỉ dụ của vua Thành Thái ban hành ngày 23 tháng 10 năm Thành Thái thứ 8 (17/9/1896) và Nghị định của Toàn quyền Đông Dương A. Rousseau ký ngày 18/11/1896.
Nghiên cứu sử liệu về trường QH Huế, thầy Phan Khắc Tuân, vị hiệu trưởng cuối cùng của trường trước năm 1975, trong bài viết ngắn “Ngày thành lập trường Quốc Học Huế” (bản vi tính, chưa công bố, thầy Phan Khắc Tuân tặng tôi năm 2012), cho biết: Trong Đặc san Ái hữu Quốc Học, 1971, tác giả Vu Hương (là bút danh của cụ Ưng Thuyên, thân phụ cố họa sĩ Bửu Chỉ) đã viết: “…tôi tìm được ba văn kiện về trường Quốc Học trong Bulletin Administratif de l’ Annam (Trung kỳ công báo) do Tòa Khâm sứ ở Huế xuất bản năm 1896, quyển sau cùng. Đó là: 1 Nghị định của Toàn quyền Đông Dương thành lập trường Quốc Học. 1 Nghị định của Khâm sứ Trung kỳ và 1 Đạo dụ của vua Thành Thái ấn định những thể thức và chi tiết về việc thi hành nghị định căn bản trên đây (…) ngày 23/12/1969, tôi có đến Tòa Đại biểu ở Huế để tìm lại quyển này với mục đích xuất trình những điều khoản chính yếu của ba văn kiện về trường Quốc Học, nhưng tôi đã thất vọng: quyển ấy đã biến mất, có lẽ ngay sau khi tôi thôi phục vụ tại Tòa Đại biểu!”. Còn Quốc sử quán triều Nguyễn, trong cuốn Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên (Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ xuất bản tháng 10/2011), trong quyển 8 (tr. 264 - 267) ghi chép các sự việc trong năm Bính Thân, Thành Thái thứ 8, có chép việc “đặt trường Quốc Học chữ Tây” như sau: “Tháng 12. Bắt đầu đặt trường Quốc Học chữ Tây. Trước là Khâm sứ Brière bàn về các khoản sinh viên Quốc tử giám nên học thêm chữ Tây, phép thi nên thêm phần thi chữ Tây cùng quy thức học tập ở Ty Hành Nhân nên đổi định thế nào. Bèn đặt hội đồng cùng bàn, kế nghị định ban dụ thi hành. Lời dụ nói “Học không có thầy nhất định, cốt phải học rộng. Việc dạy ắt phải lập cho sự học được rộng. Đại khái ngoài cái học sáu kinh còn có Lục thư, việc giao thông giữa các nước trọng chuyện từ lệnh, duy việc học có rộng thì sau có thể theo phương mà dùng cho phù hợp, việc dạy có chuyên thì sau có thể tinh nghiệp mà thành người tài năng, đó đều là việc cần thiết hiện nay không thể coi thường. Nước ta từ Quốc tử giám ở kinh sư tới các tỉnh phủ huyện không đâu không học Nho học, đã tinh tường lại đầy đủ, nhưng về cái học Thái Tây vẫn còn nhiều khuyết điểm. Mới đây Cơ mật viện tâu với Tổng thống Đông Dương Toàn quyền đại thần nước Đại Pháp phù Nam vương Rousseau tới kinh và Trú kinh Khâm sứ đại thần Hộ Nam công Brière họp bàn đặt trường học chữ Tây, chiểu nguyên các khoản mà các viên hội đồng Phó Công sứ nguyên sung quản lý tòa sứ Bác Xích, Phó Công sứ sung Hội biện Lại chính Bùi Như làm Chưởng hội, Thương biện Cạnh Tê, Thượng thư bộ Hộ Trương Như Cương, Thượng thư bộ Lễ Huỳnh Vĩ, Thương biện Ngô Đình Khả bàn định chắc đã ổn thỏa phù hợp. Nay chuẩn đặt trường ấy, gọi là trường Quốc Học để dạy tiếng và chữ Đại Pháp, tham khảo dạy thêm chữ Hán (…). Tờ Dụ này chuẩn sao ra cho quý Toàn quyền đại thần tuân duyệt… Đến lúc ấy Toàn quyền đại thần đưa công văn qua bàn định các khoản (Khoản 1: Thiết lập trường học ở kinh, gọi là trường Quốc Học, chuyên dạy chữ Hán và tiếng Đại Pháp, cũng không nên bỏ hết chữ Hán… Khoản 15: Nghị định này do Tòa Khâm sứ và Cơ mật viện chiểu lời nghị thi hành). Bèn lấy Thái thường tự khanh Ngô Đình Khả làm Chưởng giáo, định rõ từ trung tuần tháng giêng năm sau khai trường”. (Nguồn: Thầy Phan Khắc Tuân, bài đã dẫn).
![]() |
Ảnh 1 |
![]() |
Ảnh 2 |
![]() |
Ảnh 3 |
![]() |
Ảnh 4 |
Năm 1971, nhóm thực hiện Đặc san Ái hữu Quốc Học đã cho in toàn văn hai bản dịch Việt ngữ Chỉ dụ ngày 23/10/1896 của vua Thành Thái và Nghị định ngày 18/11/1896 của Toàn quyền Đông Dương (tr. 5 - 10). Theo thầy Phan Khắc Tuân, “Trước năm 1975, hai bản dịch này được khắc trên hai bảng gỗ khổ lớn sơn son thếp vàng treo trong phòng khánh tiết của trường Quốc Học (…). Hai bản dịch quốc ngữ không ghi tên người dịch và cũng không cho biết bản dịch Dụ của vua Thành Thái dịch từ bản gốc chữ Hán hay từ bản tiếng Pháp (…). Tôi may mắn liên lạc được với anh Cao Huy Thuần ở Paris, anh Cao Huy Thuần lại nhờ được một người bạn ở Aix-en-Provence tìm kiếm chỉ tìm được hai văn kiện, rồi sao chụp ngày 02/12/2011: 1/ Dụ của vua Thành Thái (Ordonnance Royal) ngày 23/10/1896 (ảnh 1). 2/ Nghị định của Toàn quyền Đông Dương (Arrêté du Gouverneur Général de l’ Indochine ký ngày 18/11/1896”, (ảnh 2). (PKT, bđd(1).
Những tư liệu nói trên về lịch sử trường Quốc Học thuộc loại quý hiếm. Ngay từ khi ra đời, Quốc Học là tên chính thức được ghi trong các văn kiện thành lập trường (Tên đầy đủ là Quốc gia Học đường). Cho đến nay chưa thấy công bố ở đâu Chỉ dụ ngày 23/10/1896 của vua Thành Thái bằng chữ Hán. Riêng hai bảng gỗ khắc hai bản dịch Chỉ dụ của vua Thành Thái và Nghị định của Toàn quyền Đông Dương hiện nay không còn được treo trong trường QH Huế nữa. Các hiện vật quý hiếm đó có lẽ đã bị loại ra khỏi Trường Quốc Học từ sau ngày thống nhất đất nước. Đó là hai bảng gỗ lớn có kích cỡ giống nhau (1m60 x 0m77), sơn son thếp vàng, khắc bản dịch Việt ngữ hai văn kiện quan trọng nói trên với nét chữ rất đẹp (ảnh 3 & 4). Gần đây, tôi tình cờ phát hiện hai hiện vật độc đáo ấy được lưu giữ tại tư gia một người sưu tầm cổ vật ở Huế. Hình như nhà sưu tầm cổ vật ấy không có ý định bán hai bảng gỗ đó ra khỏi Huế! Dù sao, tôi cũng thầm cảm phục lương tâm văn hóa của anh ấy đối với di sản văn hóa Huế.
Không rõ Ban giám hiệu trường Quốc Học Huế hiện nay (và cả những người cấp trên của họ), khi biết hai cổ vật vô giá đó hiện vẫn còn được lưu giữ ở Huế, họ có muốn “chuộc” nó về lại cho trường Quốc Học không, như “Châu về Hợp Phố”?
L.V.T
(Cựu học sinh Quốc Học Huế)
(SHSDB40/03-2021)
-------------------------------
(1) Không hiểu vì sao trong bản sao chụp Nghị định số 1639 của Toàn quyền Đông Dương không dùng chữ Arrêté Gouverneur Général mà dùng chữ Cabinet Gouverneur Général? (nv).
Mỗi dịp đầu Xuân mới, các làng xoan cổ ở Phú Thọ lại có dịp hội tụ hát những làn điệu mượt mà, đằm thắm, thấm đậm tình đất, tình người đất Tổ Vua Hùng.
Theo thông tin từ Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), có sáu lễ hội truyền thống đã được bổ sung vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
LTS: Đầu tháng 12-2016, tại phiên họp Ủy ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO, di sản thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã được UNESCO đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tại Việt Nam, có luồng ý kiến cho rằng, những biến tướng từ tín ngưỡng này đang gây ảnh hưởng không nhỏ đời sống văn hóa tâm linh của người Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ là gì và tại sao một bộ phận người Việt có cái nhìn như vậy?
GS Ngô Đức Thịnh cho rằng đạo Mẫu có những vị thánh được “dệt” từ anh hùng trong lịch sử. Bằng cách đó, đạo Mẫu cũng thể hiện chủ nghĩa yêu nước.
Ngày 3/12, đại diện của khoảng 40 nước nhóm họp tại Abu Dahabi đã thông qua kế hoạch thành lập một quỹ bảo vệ các di sản trong các khu vực có chiến tranh và một mạng lưới cất giữ an toàn cho các tác phẩm nghệ thuật đang gặp nguy hiểm.
Theo thông tin từ Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã chính thức được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Ngày 29.11, Sở VH-TT TP.Đà Nẵng cho biết Nghệ thuật hô/hát bài chòi dân gian ở Đà Nẵng vừa được Bộ VH-TT-DL công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Mới đây, Bộ tem “Đờn ca tài tử - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” đã chính thức được phát hành và có thời hạn cung ứng trên mạng bưu chính công cộng đến ngày 30/6/2018.
Trước khi cho phóng viên Thanh Niên chụp ảnh chiếc lư đồng, ông Hà Xuân Út, Trưởng làng La Chữ (P.Hương Chữ, TX.Hương Trà, Thừa Thiên-Huế) phải thắp hương xin phép Thành hoàng, bởi chiếc lư được cho là bảo vật rất thiêng của làng.
Di tích lịch sử Văn miếu Trấn Biên (phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai) đã chính thức được công nhận là di tích cấp quốc gia (theo Quyết định số 2894/QĐ-BVHTTDL do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện ký).
Kim sách triều Nguyễn chứa đựng nhiều thông tin giá trị về lịch sử văn hóa và nghệ thuật đỉnh cao của các nghệ nhân, thợ thủ công cung đình xưa.
TRẦN VĂN DŨNG
Trong dòng chảy lịch sử hàng trăm năm, Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng đất khác nhau để trở thành một trong những loại hình âm nhạc truyền thống đặc sắc của Việt Nam.
Với mục tiêu năm 2016, hát Xoan được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới thoát khỏi tình trạng cần được bảo vệ khẩn cấp và chính thức trở thành di sản đại diện của nhân loại, tỉnh Phú Thọ thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để bảo tồn, phát triển di sản văn hóa hát Xoan.
Trong khi nhiều loại hình âm nhạc truyền thống đã trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, thì ca Huế vốn là loại hình âm nhạc bác học mang giá trị độc đáo, có sức lan tỏa và ảnh hưởng lớn, lại chỉ mới được Bộ VH-TT-DL công nhận là Di sản phi vật thể quốc gia.
Mộc bản là một trong những di sản quý giá của nền văn hóa dân tộc. Năm 2009, UNESCO đã công nhận mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới (số mộc bản này hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV- Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng).
Theo kế hoạch đến cuối năm 2015, tỉnh Phú Thọ sẽ phải đưa Hát Xoan Phú Thọ ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp, chính thức đưa hát Xoan trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại.
Xúc động, đầy tính nhân văn và hoàn toàn tương đồng với những giá trị đạo đức của người Việt, lễ Vu lan báo hiếu đang được một số chuyên gia đề nghị tìm hình thức tôn vinh xứng đáng.
Trong hành trình của “Trại hè Việt Nam 2015,” ngày 21/7, Đoàn thanh niên sinh viên kiều bào đã đến với Huế - thành phố văn hóa ASEAN có khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp với sông Hương, núi Ngự cùng đền chùa, thành quách, lăng tẩm cổ kính rêu phong gắn liền với triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.
LTS: Hiện vật chiếc xe kéo tay vừa được đấu giá thành công và đưa về Huế, đang được trưng bày tại cung Diên Thọ, khu vực sinh hoạt của các hoàng thái hậu triều Nguyễn. Tấm bảng giới thiệu về chiếc xe ghi rõ: “Theo hồ sơ đấu giá, đây là chiếc xe kéo do vua Thành Thái tặng cho mẹ mình là hoàng thái hậu Từ Minh để dạo chơi trong vườn ngự uyển”.
Cuộc hội thảo bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế vừa được Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế tổ chức trong hai ngày 8 và 9.5, tại TP.Huế.