Truyện Kiều, bản chép tay của hoàng gia Triều Nguyễn

15:42 05/10/2020

Kỷ niệm 255 năm ngày sinh (1765 - 2020), 200 năm ngày mất Danh nhân văn hóa thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du (16/9/1820 - 16/9/2020)

NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG

Chân dung Nguyễn Du (trang tiểu dẫn đầu tiên trong “Kim Vân Kiều tân truyện”, bản của hoàng gia triều Nguyễn, thời Tự Đức). Sách đã được NXB Lao Động ấn hành năm 2017

Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của Việt Nam. Đây là một truyện thơ bằng chữ Nôm do Nguyễn Du (1766 - 1820) sáng tác (khoảng từ 1814 đến 1820) sau chuyến đi sứ Trung Quốc. Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân trong Kim Vân Kiều truyện (một tiểu thuyết chương hồi), Nguyễn Du đã sáng tác thành truyện thơ bằng thể lục bát thuần Việt với trên 3.200 câu. Nhân kỷ niệm 200 năm (1820 - 2020) ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du, chúng tôi xin giới thiệu một văn bản rất đặc sắc trong di sản Truyện Kiều.  

Các bản Kiều cổ trong lịch sử

Tương truyền, sau khi viết xong Truyện Kiều đặt nhan đề là Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du có đưa cho bạn thân là Phạm Quý Thích (1760 - 1825) xem. Phạm Quý Thích nhuận sắc, sửa chữa một vài chỗ, viết đề từ bằng chữ Hán, và đổi tên thành Kim Vân Kiều tân truyện, đưa khắc in ở Hàng Gai, Hà Nội. Đáng tiếc là hiện nay bản này đã không còn.

Trong lịch sử, Truyện Kiều đã có nhiều lần được khắc in. Giới nghiên cứu hiện nay đã từng biết đến 63 bản Truyện Kiều cổ đã được công bố giới thiệu. Nhiều người đã cơ bản thống nhất rằng, bản Truyện Kiều được sao chép, in ấn sớm nhất mà hiện nay còn lưu trữ đó là bản Liễu Văn Đường (1866), tiếp đó là các bản Kinh (1870), bản Liễu Văn Đường (1871), bản Duy Minh Thị (1872), v.v. Đó chính là những bản Truyện Kiều xuất hiện dưới thời Tự Đức (1847 - 1883). Trong lịch sử, Truyện Kiều vốn được sưu tầm và cố định văn bản qua căn cứ trí nhớ và thư tịch, do vậy, các bản chép tay của một số người, rồi các bản in của các “tàng bản” đều có nhiều sự khác biệt về từ ngữ, số lượng câu, v.v.

Trong đó có 03 bản chép tay từng được biết đến đó là, bản chép của Lâm Nọa Phu (chép năm 1870); bản chép của Nguyễn Hữu Lập (1823 - 1874, chép năm 1870); bản chép của Trần Bích San (1838 - 1877). Đặc biệt, mới đây nhất, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Bảo công bố bản Kiều chép tay của Hoàng gia triều Nguyễn.

Bản Kiều của Hoàng gia triều Nguyễn(*)

Đây là bản của Hoàng gia triều Nguyễn với đặc điểm nổi bật đầu tiên là bìa sách. Bìa bằng vải màu vàng, dệt hình rồng, mặt rồng ngang, thân uốn khúc, chân năm móng bấu vào mây ngũ sắc, trang trí xung quanh nền là họa tiết dệt hình bát bửu. Tính chất của họa tiết rồng năm móng đưa đến nhận xét đầu tiên, đây là bản của nhà vua “ngự lãm”. Theo thông tin, cuốn cổ thư này từng được bày bán ở một hiệu sách cổ ở Paris, sau đó trở thành thư mục nằm trong bộ sưu tập cổ thư của Thư viện Anh quốc từ năm 1894. Có lẽ cuốn cổ thư này đã từng bị thất tán1 sau sự kiện thất thủ Kinh đô 1885, khi mà người Pháp cùng quân đội viễn chinh đã tràn vào xâm chiếm Kinh đô, vào Hoàng Thành và lấy đi không ít của cải cùng nhiều báu vật của triều đình Huế.

Về hình thức, bản Kiều chép tay này có tên gọi là Kim Vân Kiều tân truyện, gồm 150 mặt giấy dó. Ngoài 04 mặt giấy phụ bìa vẽ nhũ hình long vân màu vàng trên nền đỏ, sách có 146 mặt giấy dó, tương ứng với 146 trang nội dung. Nội dung từng trang được trình bày rất thống nhất: trích yếu nội dung, chữ châu phê, số trang, phần thơ chữ Nôm, phần phụ chú bằng chữ Hán. Đặc biệt là mỗi trang ngoài phần chữ, còn có phần tranh minh họa cho nội dung gồm 146 bức tranh vẽ bằng mực nho cực kỳ chi tiết. So với các bản chép tay của Lâm Nọa Phu, Nguyễn Hữu Lập, Trần Bích San như đã nêu, bản chép tay này rất chuẩn mực, chữ viết dạng chữ chân sắc nét, nghiêm ngắn. Tuy nhiên, đến nay chưa có định hướng xác định người chép bản Kiều này cũng như tác giả của 146 bức tranh minh họa ấy là ai.

Về nội dung, theo nhận định, bản Kiều này tương đối thống nhất với các bản khắc in dưới thời Tự Đức, nhưng điều đáng thú vị là có nhiều chữ trong bản chép tay của Hoàng gia triều Nguyễn được sử dụng dưới dạng phương ngữ, dùng lối phát âm theo giọng / âm Huế. Ví dụ như “Lời xưa đã lỗi muôn vàng” (các bản khác là “muôn vàn”); “Câu thơ thắc thẻm khen thầm” (các bản khác là “Xem thơ nức nở…”), v.v.

Quả thực, bản Truyện Kiều chép tay của Hoàng gia triều Nguyễn trước đây chưa từng xuất hiện ở Việt Nam. Do vậy, đây là một bản Kiều cực kỳ quý hiếm, nhưng chưa được chú ý nghiên cứu kỹ lưỡng về văn bản, thư tịch học.

Phải chăng vua Tự Đức đã thân bút chép bản Kiều này

Đáng chú ý nhất là phần chữ đỏ mang tính nhận định nội dung của từng trang trong bản Kiều này. Theo điển lệ chỉ có hoàng đế mới được viết chữ màu đỏ, do vậy mới có hiện tượng gọi là “châu phê” trên văn bản. Dấu ấn sâu đậm nhất của hiện tượng “châu phê” là hiện nay ở Việt Nam còn lưu giữ hàng trăm trang thư tịch Châu bản thể hiện ý chỉ của nhà vua trên văn bản.

Từng mỗi trang trong bản Kiều này đều có các dòng “châu phê” như thế. Do vậy, căn cứ vào niên đại và tính chất, có thể khẳng định chính vua Tự Đức là người đã “châu phê” trên các trang của bản Kiều này.

Có thể thấy rằng, vua Tự Đức là một người rất yêu quý Truyện Kiều. Sinh thời, nhà vua đã có chủ trương tìm kiếm, nhuận sắc để in lại Truyện Kiều. Vua Tự Đức từng đề cập về sự thất tán của Truyện Kiều và ước muốn lưu giữ tác phẩm này qua mấy vần thơ trong bài “Tổng từ” về Truyện Kiều:

Hương phố yên ba tam nguyệt thiên,
Phần lô nhàn độc Thanh Tâm biên.
Thị biên Bắc nhân Thánh Thán trước,
Dịch âm ngã quốc Nguyễn Tiên Điền.
Cận lai danh sơn phong vũ thực,
Hoa Đường bình bản vô lưu truyền.
Thích kim đài các thừa nhàn hạ,
Bất nhẫn giai thoại không hàn yên.
Ngẫu ư cổ lục đắc toàn giản,
Truyền thần tả chiếu tương trùng thuyên.
Trích hoa ly tảo phân đề vịnh,
Nhị thập hồi trung mặc thái nghiên.


Dịch thơ:

Trên sông Hương tháng ba một buổi
Truyện Thanh Tâm ngồi rỗi ngâm nga
Truyện này Thánh Thán soạn ra
Diễn thơ lục bát nước ta Tiên Điền
Trải lắm độ triền miên mưa gió
Tập hoa đường còn có nữa đâu
Gặp khi rỗi rãi trên lầu
Truyện hay chẳng lẽ về sau tro tàn
Xét tủ cũ may còn trọn tập
Họa đồ hình định rắp đem in
Gấm hoa đề vịnh từng thiên
Hai mươi hồi nét mực tiên sáng ngời
2
            (Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch)

Liên tưởng từ nội dung bài thơ “Tổng từ” của vua Tự Đức và bản Kiều đang nói quả là thú vị. Chính cái ý “Họa đồ hình định rắp đem in” (Truyền thần tả chiếu tương trùng thiên) và “Gấm hoa đề vịnh từng thiên” (Trích hoa ly tảo phân đề vịnh) mà vua Tự Đức nói tới cũng trùng hợp với thực tế xuất hiện các bức tranh minh họa ở từng trang, các dòng châu phê ở từng trang trong cuốn Truyện Kiều đặc sắc này.
 

Đặc biệt hơn, so sánh các chữ giống hình thức, giống nghĩa ở các dòng của chữ viết nội dung màu đen với các dòng châu phê màu đỏ thì có sự trùng khít, giống nhau về thư pháp đáng ngạc nhiên. Ví dụ, thử so sánh các chữ giống nhau tại các vị trí ở các dòng châu phê các câu Kiều từ 24 đến 26 trên tờ 3 cho thấy:

- Đoạn châu phê bằng chữ Nôm, nhà vua viết: “Đây nói Thúy Kiều hơn Thúy Vân, kể sắc thời hoa liễu còn thua, kể tài thời đủ cầm kỳ thi họa mà xuân xanh vừa thuở trăng tròn, thựcphong lưu nhàn tĩnh”.

- Các câu Kiều từ 24 - 26 chép:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại phần hơn
.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.


Ở đây, so sánh chữ sắc 色 đỏ (châu phê) với các chữ sắc 色 đen (các câu Kiều); tương tự so sánh chữ tàiđỏ và đen; so sánh chữ 罗; so sánh chữ xanh 撑; so sánh chữ hoa花; so sánh chữ liễu 柳; so sánh chữ xuân春 (xem ảnh). Rõ ràng, tất cả các chữ (sắc, tài, là, xanh, hoa, liễu, xuân của hai màu chữ đỏ và đen) đều cùng một lối công bút, vận bút để hình thành tự dạng. Ở đây, 07 nét cơ bản gồm nét chấm, nét ngang, nét sổ, nét hất, nét phẩy, nét mác, nét móc ở các chữ đỏ, đen đều được thể hiện rất thống nhất. Từ khởi bút, hành bút đến thu bút ở các trường hợp như chữ, chữ xuân, chữ hoa, v.v. trong các chữ đều cùng một lối. Đi vào chi tiết có thể so sánh độ sắc nhọn của đầu bút khi thu bút để kết thúc chữ (như ở chữ hoa); hoặc khoảng cách đều đặn trong phân bố bố cục của từng nét trong một chữ (như ở chữ sắc), hay độ cong của nét móc kết thúc (như ở chữ), v.v.

Từ những phân tích trên, rõ ràng, tất cả các chữ (sắc, tài, là, xanh, hoa, liễu, xuân của hai màu chữ đỏ và đen) đều cùng một lối vận bút, tự dạng. Điều này tạo nên một phán đoán mang tính suy luận là: chữ trong cuốn cổ thư này là cùng một người viết. Như đã phân tích, chính vua Tự Đức đã châu phê vào từng trang của bản Kiều này thì phần nội dung cũng là do của vua Tự Đức chép. Suy luận của chúng tôi là một hướng nghiên cứu cần được các nhà thư tịch học tiếp tục làm rõ thêm, ngõ hầu có thể khẳng định một cách xác tín cho giá trị độc đáo về hình thức của một kiệt tác văn chương Việt Nam.

Nếu quả đúng vậy, quyển Truyện Kiều này sẽ nhân nhiều giá trị về văn chương và thư tịch; về thư pháp và mỹ thuật. Đó đúng là một cổ vật có giá trị như một báu vật văn học gắn liền với tên tuổi của những trí thức tinh hoa dưới thời Nguyễn.

N.P.H.T
(TCSH379/09-2020)

----------------
(*)Bản này do Nguyễn Khắc Bảo công bố với tên gọi là “Truyện Kiều, bản Nôm của Hoàng gia triều Nguyễn, lưu trữ tại thư viện Anh quốc”, Nxb. Lao động, 2017.
1. Sự thất tán thư tịch có một chuyện tương tự: năm 2008, cựu Thẩm phán André de Crozet (sống tại Marseille, Pháp) từng tặng cho Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế 01 cuốn Ngự chế thi lục tập, quyển 10 (Thơ chữ Hán của vua Minh Mạng). Vị thẩm phán này đã thông tin rằng, cuốn sách này vốn lưu giữ tại Hoàng cung Huế, vào năm 1885 bị một người lính lê dương lấy, sau này tặng lại cho gia đình ông.
2. Dẫn theo Nguyễn Quảng Tuân, Truyện Kiều, bản Kinh thời Tự Đức 1870, in trong Kỷ yếu “Di sản Hán Nôm Huế”, Đại học KHXH&NV Hà Nội, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xb, Huế, 2003, tr.127.  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH