Truy tìm sự thật về kho báu tuyệt mật của vua Minh Mạng

09:57 06/10/2014

Nhắc đến vua Minh Mạng, người đời nghĩ đến ngay hình ảnh của một quân vương nổi tiếng quyết đoán và giai thoại về năng lực giường chiếu phi thường.

Nơi chôn cất thi hài tượng trưng của vua Minh Mạng.

Nhưng ít người biết, vị vua này còn gắn liền với một nghi án về kho báu khổng lồ được cất giấu trong lòng Đại Nội ở kinh thành Huế.

Bởi thông tin ấy, hậu thế sau này đã nhiều lần bỏ công tìm kiếm nhưng không thu được kết quả. Tuy nhiên nó vẫn là một nghi án thế kỷ được nhiều người quan tâm.

Người Pháp đã 3 lần khai quật để tìm kho báu

Hàng thế kỷ qua, giai thoại kho báu khổng lồ bị thất truyền của vua Minh Mạng vẫn là thách thức lớn cho hậu thế. Nhiều lời đồn đại trong dân gian còn cho rằng, kho báu này đã bị “trấn yểm” để mãi mãi trở thành tài sản riêng cho các bậc đế vương Nguyễn triều khi về thế giới bên kia (?).

Mang chút manh mối ít ỏi này đến “gõ cửa” nhà nghiên cứu Phan Thuận An, chúng tôi được ông cho biết: “Hiện nay, tôi đang giữ một vài tài liệu cũng như những thông tin hiếm hoi liên quan đến kho tàng bí mật này của triều Nguyễn. Nguyên dưới thời vua Gia Long (1802 - 1819) và Minh Mạng (1820 - 1840), thực sự có chôn giấu hầm vàng bạc, châu báu trong lòng đất. Đây là thời kỳ hưng thịnh nhất của vương triều nhà Nguyễn nên số của cải được cất giấu chắc chắn không hề nhỏ. Về sau, khi vua Minh Mạng qua đời, toàn bộ những thông tin liên quan đến kho tàng này đều theo ông về với lòng đất”.

Trong các tài liệu nhà Huế học Phan Thuận An sưu tầm được thì bộ sách Đại Nam nhất thống chí (tập Kinh sư),Đại Nam thực lục và Đại Nam Điển Lệ có nhắc đến kho báu của triều Nguyễn dưới thời vua Gia Long gọi là Nội Đồ Gia, được thiết lập ở phía tả của Hưng Khánh thuộc Tử Cấm Thành, qua năm đầu thời Minh Mạng được đổi tên là Nội vụ Phủ.

Cơ quan này quản lý 7 kho với 7 loại vật hạng khác nhau, trong đó kho vàng bạc là quan trọng nhất. Mỗi kho có 12 người chủ thủ canh giữ rất cẩn mật. Năm 1836, kiểm kê cho thấy hầm chứa vàng bạc ở kho này đã chứa đến 200.000 lượng vàng, bạc. Đến năm 1838, kho vàng bạc này được vua Minh Mạng cho di dời và chỉ các đại thần thân cận như Phạm Hữu Tâm, Nguyễn Tăng Minh, Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên mới được chỉ định đến giám sát. Nơi kho báu này dời đến được cho là khu vực bên trái Hoàng thành (tức khuôn viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật ngày nay).

Thông tin hầm bạc đầu tiên của Vua Minh Mạng được phát hiện dưới thời vua Thành Thái. Nhưng khi đó, đất nước đã bị thực dân Pháp đô hộ. Theo đó, vào năm Thành Thái thứ 11 (1899), Khâm sứ Pháp Boulloche sau khi nhận được tin báo của Hoằng Trị quận vương Hồng Tố nói: “Đời Vua Minh Mạng và Thiệu Trị có chôn nhiều bạc trong Đại Nội đã phái quan hội đồng (quận vương Hồng Tố, Thượng thư Bộ Công Nguyễn Thuật, Thượng thư Bộ Lễ Huỳnh Vĩ, Hội biện Sô Lê, Đô Ty, quận công Ưng Huy, Tham biện Tôn Thất Hoài Điển) và phát 100 phu khỏe theo nơi được chỉ đào và tìm thấy 1 hầm bạc ba vết (là loại bạc chuẩn của triều Nguyễn, trên thường có ba cụm chữ triện đóng riêng rời. Khâm sứ đại thần bàn trích 30.000 nén do Thượng thư Bộ Hộ Trương Như Cương, Hội biện Đô Ty chở ra Ngân hàng Hải Phòng đổi lấy tiền chi biện các việc công ích”.



Vua Minh Mạng đã để lại một bí ẩn lớn cho hậu thế.


Đến năm 1915, liên tiếp hai hầm bạc khác được tìm thấy. Trong đó, một hầm khi đào lên kiểm biên phát hiện có đến 60 hòm gỗ với 10.000 hốt bạc và 1 đồng tiền đồng đỏ cùng khắc chữ Phú Thọ Đa Nam, 28 đồng tiền đồng và tấm bia đá khắc 16 chữ dịch nghĩa “Giáp Ngọ ngày tốt, mười vạn bạc ròng, lưu làm quốc dụng, ai dám riêng lòng”. Hầm bạc thứ ba thì được phát hiện khi những người thợ thi công đụng phải phiến đá lớn tại khu vực cửa Tường Loan.

Quá trình đào tìm thấy 1 đồng tiền đồng đỏ, 28 tiền đồng, bia đá khắc 16 chữ với nội dung “Minh Mạng Giáp Ngọ, cất bạc trăm ngàn, của nước không thiếu, chất chứa muôn vàng” và 70 hòm gỗ, bên trong có 10.000 hốt bạc thỏi... Như vậy theo chính sử nhà Nguyễn, đã có ba lần tìm thấy hầm bạc thời Vua Minh Mạng. Cả ba lần tìm kiếm kho báu ấy đều có sự hiện diện, giám sát chặt của người Pháp.

Cuộc khai quật cuối cùng

Gần 100 năm sau lần tìm kiếm cuối cùng của người Pháp, tưởng như sẽ không còn ai nhắc đến kho báu huyền thoại nữa thì trong Đại Nội lại diễn ra một cuộc tìm kiếm mà chưa có tài liệu nào được công bố. Người viết chỉ biết đến sự kiện này từ những chia sẻ của nhà Huế học Phan Thuận An. Chính ông đã chứng kiến toàn bộ quá trình khai quật cũng như một số kết quả thu được từ cuộc đào bới chưa được công bố lần này.

Sự kiện diễn ra vào mùa Đông năm 1988. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An: “Lúc bấy giờ, một số cán bộ có thẩm quyền của bộ Nội vụ (cũ) vào Bình Trị Thiên (cũ) phối hợp với Sở Công an và Tỉnh ủy để cho đào. Dĩ nhiên, mọi việc đều được tiến hành trong vòng bí mật. Một góc của Tử Cấm thành bị phong tỏa và được canh gác kỹ lưỡng. Lực lượng đào gồm khoảng 10 người thuộc về lực lượng trinh sát chính trị và kinh tế của Sở Công an Bình Trị Thiên đóng tại Huế. Chính những người đào cũng chẳng được cho biết làm mình đang đào tìm gì, cứ nghĩ rằng có lẽ việc đào bới tìm tòi này liên quan đến một vụ án chính trị hoặc kinh tế nào đó. Hoặc đào hầm vũ khí chôn giấu từ trước năm 1945”.

“Trước hết, lực lượng tìm kiếm đào thám sát ba hố gần bờ hồ và gần một gốc cây đại thụ nằm không xa chân tường, phía trong của Tử Cấm Thành. Sau khoảng ba tuần đào bới thấy được một viên đá có hình thù và diện mạo hơi lạ, cỡ lớn hơn viên bờ lô. Nó nằm ở bậc thềm xây để bước xuống một cái hầm nay đã bị lấp. Trên mặt viên đá có một dấu về khả nghi. Người ta đoán rằng có lẽ đó là chữ Hán viết thảo để cho biết kho vàng nằm ở đâu. Viên đá được đem về Sở Công an rồi dùng xe chở đi nhờ nhà sư ở các chùa và các vị túc nho ở Huế đọc chữ Hán ấy.

Tất cả các vị đều không nhận ra là chữ gì. Viên đá được đem về Phòng An ninh kinh tế của Sở Công an đặt vào tủ kính kèm theo hồ sơ nói về lai lịch và kích thước của nó. Sau đó mấy tuần, Sở Công an thông báo và mời Công ty quản lý di tích lịch sử và văn hóa Huế sang nhận viên đá về để nghiên cứu. Được xem tận mắt, chúng tôi thấy các dấu vết hằn sâu trên một góc của mặt viên đá chỉ là một sự xói mòn tự nhiên, một hiện tượng thoái hóa của các thớ đá thiếu độ bền so với các thớ đá xung quanh. Hiện nay, viên đá vẫn còn để lại tại cơ quan này”, nhà nghiên cứu Hồ Thuận An khẳng định.

Tìm đến Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, chúng tôi không còn thấy viên đá nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhắc đến được trưng bày nữa. Ông Phan Thanh Hải - Giám đốc trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế cho biết: “Vì một số lý do, chúng tôi không thể cho người ngoài tiếp cận viên đá đó nữa. Nó chỉ dùng để phục vụ vào mục đích nghiên cứu của các nhà chuyên môn. Nhưng cho tới giờ thì chúng tôi vẫn chưa nhận được kết quả nào có giá trị về hòn đá từ những nhà nghiên cứu. Cho dù đã có nhiều người tới xem xét và ghi lại những gì thể hiện trên bề mặt của viên đá này”.

Kho báu khổng lồ ở đâu?

Quá trình tìm hiểu về kho vàng bạc của vua Minh Mạng, chúng tôi được cụ N.B.T (83 tuổi, xin được giấu tên, là hậu duệ của một vị quan triều Nguyễn) cho biết: “Hồi còn nhỏ, tôi có nghe cha mình kể lại những câu chuyện về kho báu của nhà vua. Chỉ biết rằng lời đồn về kho vàng ấy là có thật vì khu vực mà vua để vàng bạc trước kia được cho người canh giữ vô cùng cẩn mật. Theo truyền thuyết, thì sau khi khiêng hàng trăm thậm chí hàng ngàn rương vàng bạc, châu báu đặt vào các thạch thất, toán lính đã tình nguyện chết mang theo bí mật xuống mồ với tinh thần “vua kêu tử thần tử”. Chỉ duy nhất vua Minh Mạng là người nắm giữ mật đồ chôn các kho báu”.

 

 

Theo Gia đình & Xã hội

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hiện tại trong 6 lăng vua Nguyễn ở Huế đang còn tồn tại 10 con ngựa đá rất đẹp ở sân chầu dẫn vào khu mộ với nhiệm vụ canh giữ “hồn” xưa của vua.
     

  • 30 năm qua, anh lặng lẽ chăm chút ngựa như chăm chút con mình, cái nghiệp trông coi ngựa gắn người với ngựa cũng từ đó. Anh nói, cái nghề này, nếu không yêu nghề thì phải bỏ thôi, chứ công việc hoàn toàn khác hẳn, đòi hỏi phải tinh mắt, biết lắng nghe, siêng năng, cần cù…

     

  • Cổng Ngọ Môn Quan là cổng chính phía Nam của Hoàng thành Huế, đồng thời cũng là cổng chính và là bộ mặt của Đại Nội. Ý nghĩa của cổng Ngọ Môn là gì? Có phải là lối ngựa đi?

     

  • Quầy thư pháp Tràm hoa vàng của bà Trần Thị Cúc nằm trên đường Lê Lợi (TP Huế) đã trở thành địa chỉ quen thuộc của người dân và du khách yêu thư pháp. Họ đến để được nhìn ngắm nét bút tài hoa của người phụ nữ duy nhất ở mảnh đất cố đô theo nghiệp viết thư pháp.

  • Di tích Thanh Bình Từ Đường nằm sâu 50m trong kiệt 281, đường Chi Lăng (TP Huế). Sức hấp dẫn của ngôi từ đường được xếp vị trí loại 1 di tích văn hóa cấp quốc gia. 

  • Sông Hương - quà tặng tuyệt diệu của tạo hóa cho Huế thiên hạ đã biết, nhưng từ khi những con đường ven sông và các cây cầu vươn nhịp nối đôi bờ ngày một nhiều hơn thì các khách sạn và nhiều công trình kiến trúc khác, thường trọng “mặt tiền” là con đường người xe tấp nập, “vô tư” quay lưng với dòng sông từng là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca nhạc họa.

     

  • Nhân dịp mừng xuân, mừng Đảng, xin kể lại câu chuyện về một người đảng viên được dân lập miếu thờ và có một ngôi trường mang tên ông.

  • Hiện nay, nghệ thuật pháp lam- Huế còn nhiều kiệt tác chưa được khám phá. Ấn tượng về sự sáng tạo tinh xảo của người nghệ nhân đi trước là động lực để người đương thời tạo nên những tác phẩm mới...

  • Cống Địa Linh xem như dấu mốc cuối cùng của phố cổ Bao Vinh. (Thừa Thiên - Huế). Qua cống Địa Linh rẽ trái dăm trăm mét, du khách sẽ bắt gặp những tấm ván dài và phía trên là những ông Táo được đặt lên phơi khô trước lúc đưa vào lò. Ở Huế đây là nơi hiếm hoi còn "sót lại” nghề làm ông Táo với nhiều ý nghĩa trong phong tục của người Việt.

  • Người Pa Kô ở A Lưới, Thừa Thiên – Huế  và nhiều dân tộc vùng cao khác đều có nghệ nhân khèn bè nhưng điệu khèn lúc thì như nắng mới, như gió mơn man, như lau lách rì rào; khi thì da diết như tiếng lá khô chậm rãi rời cành…, thì chỉ có được trong điệu khèn Kăn A Kết. Điệu khèn nổi tiếng những năm 60, 70 của thế kỷ trước, lưu truyền trong dân gian nhưng rất ít người biết được…  

  • Đây là phiên chợ độc đáo của xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, ít nơi nào có được. Nói là chợ phiên Quảng Ngạn nhưng chợ thu hút rất đông người dân của các xã lân cận như Điền Hải, Quảng Công vượt sóng nước Tam Giang về đây tụ hội. Chợ chỉ diễn ra trong 3 ngày, từ mồng một đến mồng ba Tết Nguyên Đán, rồi tan và chờ đến dịp này năm sau mới họp lại.

  • Trải qua bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử, nhưng người dân ở thôn Hòa Vang, xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế) vẫn còn cất giữ nhiều tư liệu quý về Hoàng Sa. Từ những bản sắc phong về “Cai đội Hoàng Sa” của vua Gia Long; đến chiếc đại hồng chung khắc tạc công ơn người trấn quản Hoàng Sa năm xưa… Tất cả đều được người dân xem như “báu vật lịch sử” và bảo vệ cẩn thận.

  • Tranh làng Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) vốn là dòng tranh dân gian nức tiếng hàng trăm năm qua. Những ngày Xuân về, làng tranh này lại rộn ràng khoe màu như chưa từng có sự đứt gãy của thời gian.

  • Chiều ngày 19/01/2014, tại Gác Trịnh ( 103/19 nguyễn Trường Tộ - TP Huế), Câu lạc bộ tiêu sáo Huế đã tổ chức buổi giao lưu văn nghệ đón chào xuân mới. Đông đảo những người yêu nhạc Trịnh đã đến tham dự chương trình.

  • Khoảng 6h sáng 18/1, khi đang trên đường cập bến, cách cửa lạch biển Thuận An khoảng một km, tàu cá do thuyền trưởng Hồ Văn Hiền (trú thôn Hải Tiến, thị trấn Thuận An) điều khiển bị mắc cạn. Do sóng to nên tàu cùng 5 thuyền viên đã bị nhấn chìm ngay tại vùng cửa biển Thuận An.

  • Đương thời, vua Bảo Đại từng nhận xét về vẻ đẹp của Nam Phương Hoàng hậu rằng: “Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người con gái miền Nam, thùy mị và quyến rũ, pha một chút Tây phương làm tôi say mê”.

  • Sau bao thăng trầm của cuộc sống, tranh làng Sình xứ Huế có lúc tưởng chừng đã bị xóa sổ... Nhưng may mắn vẫn còn một người đau đáu với nghề làm tranh - Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước. Ông đã gìn giữ và phục sinh nghề truyền thống có tuổi đời gần 500 năm.
     

  • Tình cờ, chúng tôi được chứng kiến trọn lễ A Riêu Piing của người Pakô ở xã Hồng Trung, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Đây là lễ hội lớn nhất của người Pakô, được tổ chức 5 năm, thậm chí 10 năm một lần.

  • Trong dịp ghé thăm Huế đầu năm 2014, họa sĩ Nguyễn Đại Giang, cha đẻ trường phái upsidedownism - đảo ngược (Từ đảo nghịch cuộc đời đến đảo nghịch hội họa, Tuổi Trẻ ngày 15-2-2009), đã có buổi vẽ tranh thú vị tại gác Trịnh - căn gác nơi Trịnh Công Sơn sống thời trai trẻ ở Huế.

  • Điện Long An - Bảo tàng cổ vật cung đình Huế và những gì chứa đựng bên trong thực sự là một di sản quý báu.