Trường Sơn ngày ấy vương vương

14:29 28/02/2011
NGUYỄN QUANG HÀNhững ngày trên chiến khu, báo Cờ giải phóng và báo Cứu lấy quê hương ở chung trong một mái nhà, cùng ăn cùng ở cùng làm.

Nhà văn Nguyễn Quang Hà. Ảnh: Lê Vĩnh Thái

Giống như các đơn vị khác trên chiến khu luôn luôn cơ động. Tòa soạn báo khi ở Chà Tang, khi ở chân dốc Dòng và có khi xuống sâu như ở Ka Đe, thuộc Nam Đông bây giờ. Anh em đi công tác tản mác quanh năm. Ở nhà trực bên báo Cờ giải phóng có Ngô Kha, Quang Hà, Lê Huy, bên báo Cứu lấy quê hương có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Thân Mỹ.

Người tôi gần gũi nhất là Ngô Kha, cùng làm trong một tờ báo và đặc biệt là có tâm trạng giống nhau, cho nên tâm tình rầm rì với nhau suốt ngày. Tôi là người đến sau cho nên được anh Ngô Kha dìu dắt rất tận tình.

Anh Ngô Kha học đại học sử, tốt nghiệp, học qua một khóa báo chí rồi vào chiến trường. Trong ba lô anh chật ních tài liệu lịch sử Thừa Thiên - Huế nên anh làm báo rất dễ dàng, đụng tới đâu có đó, tuy vậy đi đến đâu ngày ngày anh vẫn ghi chép rất chu đáo, miệt mài. Bẩm sinh Ngô Kha có máu khôi hài, nên anh nhìn vào đâu cũng có thể cười vui được. Anh lấy ngay cả khuyết tật của mình để cười. Trong chuyến đi công tác với anh Ấm về Hải Thủy, Hưng Lộc, hai anh làm ca dao hò vè để phát động quần chúng. Anh Ấm làm câu mở đầu:

“Gái sông Nong vừa hồng vừa trẻ”

Ngô Kha nhìn anh Ấm cùng lé như mình, liền cười đọc:

“Trai Quảng Trị vừa lé vừa ngơ”.

Chả là Ngô Kha và anh Ấm cùng người Quảng Trị cả. Anh em trong hầm chữ A cười vang. Đến lượt anh Ấm không làm được câu tiếp, Ngô Kha đọc luôn:

“Anh đi chầm chậm thì em chờ
Tiếc rằng về sông Nông pháo dội nên thẫn thờ ngoái lui”.

Anh em vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Giữa đạn bom có được tiếng cười vui như vậy không dễ. Ngô Kha kể ngày tết, anh với anh Trung về Quân khu ăn tết, thấy Trung, anh Bảy Tiến bảo:

- Ta ra cho Trung một câu đối nhé. Nếu đối được ta cho một bao Điện Biên bao bạc. Anh Bảy Tiến đọc:

“Chị Lựu đã bảy mặt con còn hồng sắc Lựu”

Chả là Lựu là vợ Trung và Trung đối ngay:

“Anh Trung hai cuộc kháng chiến vẫn còn Trung”

Trung được cụ Bảy khen rối rít.

Ngô Kha ngồi đâu là đem lại tiếng cười vui ở đó. Một hôm nhìn sang góc bên kia, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đang cắm cúi làm việc, Ngô Kha chỉ hai người bảo tôi:

- Có hôm Tường chọc Xuân vui lắm. Hôm ấy Xuân đọc báo, quay lại nói với Tường: “Thì ra Phù Thăng tên thật là Phu, Tường ạ”. Tường tủm tỉm: “Đặt tên kiểu nói lái mà, Thằng Phu là Phù Thăng, như Xuân ấy, ông cũng nên lấy bút danh là Thùng Xăng thì hay. Hà thử lái lại xem, đúng Thùng Xăng là Thằng Xuân không?”.

Kể xong, Ngô Kha cười. Tôi cười theo. Ở với Ngô Kha không nín tiếng được, luôn bị niềm vui lạc quan của Ngô Kha kéo theo.

Tôi nhớ hôm ở Ư Ràng, ngày ấy đói lắm. Kiếm được khúc sắn cho vào bụng là mừng lắm. Thấy Kăn Ơi thổi lửa nấu sắn, Ngô Kha chỉ đống vỏ sắn nói:

- Đồng bào cho mình chỗ vỏ sắn ni.

Kăn Ơi hất rổ vỏ sắn xuống đất. Ngô Kha nói:

- Hay đồng bào cho mình cái tút sắn này.

Kăn Ơi không cho đáp gọn:

- Anh là con người.

Ngô Kha nói:

- Mình là con người nên mình đói nè.

Kăn Ơi cười.

- Vỏ và tút sắn mình để cho heo đó. Heo nhà mình không biết nói, anh biết nói thì đi xin sắn đồng bào mà ăn.

Ngô Kha cười lăn, bảo tôi:

- Hóa ra Kăn Ơi để vỏ và tút sắn cho heo vì heo không biết đi xin.

Vào bản đêm ấy chúng tôi được đồng bào nuôi. Ngô Kha lúc nào cũng niềm nở vui vẻ, đồng bào thương lắm, đặt cho anh cái tên thật hay: Quỳnh A Tao, tức là cây mía ngọt ngào.

Ngô Kha rất tinh tế, anh lấy ngay kiểu tư duy của người dân tộc làm tiếng cười:

Vào một chiều mùa đông, đường xa, đi công tác không kịp về cơ quan, tối ấy ngủ trong nhà đồng bào ở Ka Đe, thấy Hạnh xinh đẹp, Hạnh là nhân viên của cơ quan chúng tôi mà, Cờ Tu đến cạnh hỏi:

- Hạnh có chồng chưa?

Ngô Kha đùa:

- Có rồi

- Mấy con?

- Năm đứa.

Cờ Tu thiệt thà, tưởng thiệt, vẻ ngạc nhiên:

- Rứa chồng Hạnh to bằng con trâu à?

Ngô Kha cười to:

- Con trâu to nhưng chỉ đẻ một con, heo nhỏ mà đẻ mười con.

Cờ Tu cười vang:

- Phải rồi. Phải rồi. Mình thua... Không biết mần răng cho con trâu đẻ 9, 10 con thì lợi lắm. Bụng con trâu to lắm chứ.

Cả nhà sàn rung lên một trận cười.

Quả thật cách tư duy, cách nói của đồng bào dân tộc thật thà nhưng rất vui. Ngô Kha kể:

- Bữa ấy mấy chú lính giải phóng đi đường quá ngọ dừng lại nấu ăn. Củi không khô nên khói nhiều, mấy chị đi rẫy về la to: “Khói khói khói. Máy bay phát hiện ra sẽ bắn chết cả đồng bào. Bộ đội chết có bổ sung, đồng bào chết ai bổ sung”. Mấy chú lính dập tắt lửa. Một chú nhanh nhảu: “Các chị sinh con ra mà bổ sung”. Chị lớn nhất trong đám chị em đáp lại: “Cực khổ như ri mà sinh con chi, mà có sinh con còn lâu mới được đồng bào. Mình thương bộ đội còn trẻ ở ngoài Bắc về đây đánh Mỹ - Diệm, bữa sau có nấu sắn, nấu nước thì tìm củi thiệt khô nghe”.

Ngô Kha kể tiếp:

- Đồng bào thật thà lắm. Sau tết Mậu Thân địch chặn đường về đồng bằng, chúng mình phải lên đường tuyến lấy gạo. Đêm phải vào nhà dân ngủ nhờ. Cụ chủ nhà nói: “Mỹ - Diệm nó ném bom đêm ngày, không biết lúc mô. Bố biết các con ưng ngủ “một nhau”, nhưng không được, phải rải ra mấy cái hầm mà ở. Một hầm hai hay ba người. Đồng bào thương bộ đội “đạp dép” lắm vì thiếu đói và xáp với Mỹ - Diệm. Bộ đội “đạp giày” gạo cơm đỡ hơn, nhưng đụng B52 nhiều, thương lắm. Khi mô có B52 bố gọi các con dậy đề phòng, nếu các con không nghe, bố bắn CKC là các con tỉnh ngủ”. Anh chị em cười nói với bố: “Tiếng B52 nổ to gấp mấy lần CKC chứ bố”. Bố thong thả: “Ừ lo cho các con thì nói rứa chứ nghe cái mô trước thì dậy trước”. Đó, tấm lòng của đồng bào ta là như vậy, thương lắm.

Tấm lòng của Ngô Kha với đồng bào rất gắn bó, ruột thịt. Đồng bào đặt cho anh cái tên Quỳnh A Tao là cây mía ngọt. Vì vậy Quỳnh A Tao đi đến đâu cũng được đồng bào thương. Có lần Ngô Kha đùa, dùng lý sự của đồng bào để cãi, vậy mà anh thắng, đồng bào lại tỏ ra quý anh hơn. Lần ấy Ngô Kha đi công tác với hai bạn nữ là Lợi và Đằng. Ngô Kha đi trước, Lợi và Đằng đi sau. Đến đoạn thấy máng nước, Ngô Kha thấy Ấp Lùm đang ở truồng tắm, súng và quần áo để một bên. Ngô Kha chào:

- Chào Ấp Lùm, tắm mát hè.

Ấp Lùm trả lời:

- Mát. Quỳnh A Tao đi mô về đó. Đi sau anh có phụ nữ không?

Ngô Kha vừa nói “không” xong thì Lợi và Đằng đi tới. Ấp Lùm vừa chạy lấy quần áo vừa hét to:

- Mình thương Quỳnh A Tao, mà Quỳnh A Tao không thật với mình, mình giận lắm đó.

Lợi và Đằng thì cười rúc rích.

Sợ Ấp Lùm giận, sợ mối quan hệ với đồng bào sau này khó khăn, Ngô Kha tới, vỗ vai Ấp Lùm và nói:

- Tuổi mình nhiều cái rẫy rồi, tóc mình bạc đây này, nên đi chậm. Khi mình đi thì hai o đang nằm võng và hát, khi họ đi thì mình có hai con mắt đằng trước, chứ có hai con mắt đằng sau đâu mà thấy được.

Ấp Lùm hạ giọng:

- Rứa họ hát bài chi?

Ngô Kha liền cất tiếng hát: “Đàn đưa ta đi qua con suối, con khe. Qua nương rẫy qua bao nhiêu rừng”. Ấp Lùm và hai o cười thích thú.

Ấp Lùm nói:

- Xin lỗi nghe. Cái lý Quỳnh A Tao đúng. Bữa sau mình đem bắp cho.

Ngô Kha bắt chước cái lý của đồng bào rất tài.

Ngô Kha rất thích chơi chữ. Anh kể khi về công tác Hương Trà, gặp anh Ngọc, chân băng bó. Ngô Kha hỏi:

- Anh bị thương ở mô rứa?

Anh Ngọc đáp:

- Cối anh.

- Cối Xước Dũ, Hòn Vượn hay Mõm Xanh?

- Cối đồng bào.

- Trời ơi.

- Trời tối vô sân nhà dân ở Xuân Hòa vấp cái cối giã gạo mới, sắc cạnh quá nên bị thương.

Ngô Kha cười với chúng tôi:

- Chữ “cối” anh Ngọc dùng thật thú vị.

Nói không ngoa, hình như có Ngô Kha ở đâu là ở đó có tiếng cười. Không chỉ vậy, Ngô Kha còn rất giỏi làm cao dao, hò, vè, và cả làm thơ nữa. Thơ của Ngô Kha đến với mọi người cũng xôn xao như vậy.

Ở chiến khu Thừa Thiên có một Khe suối đầy kỷ niệm. Ngô Kha đã làm thơ về Khe Trái:

“Sông Bồ tách nhánh phải không
Mà thành Khe Trái mênh mông giữa trời”

Tiễn bạn gái về vùng sâu, lòng Ngô Kha không yên:

“Em qua Ba Lô, em về Cắm biển
Em đi dưới tầm đạn pháo Ly Hy
Rọ, gáo phen ni hay tìm kiếm
Biệt kích có lùng cứ đường đi?”

Chuyến đi công tác Lê Xá Đông, gặp máy bay Mỹ bắn tới tập, tối ấy ngồi với du kích Phú Lương, Ngô Kha kể các trường hợp tránh đạn địch:

“Hôm trước tôi ở Viễn Trình
Pháo nã uỳnh uỳnh tôi xuống hầm yên
Vừa rồi tôi lên Quảng Xuyên
Súng bắn liền liền tôi chạy lăng xăng
Hôm nay ở trạm Ba Lăng
Đạn nổ tằng tằng tôi nép vồng khoai”.

Cả toán du kích ngồi xung quanh cười vang.

O Mến ở Đông Đổ đến sát bên Ngô Kha:

- Răng anh không làm cho làng em ít câu?

Ngô Kha liền đọc:

“Quê em làm Đông Đề
Trời mưa, đường đi trơn trợt..”

Mấy o kêu:

- Thơ chi lạ rứa anh Kha

- Cứ bình tĩnh nghe tiếp.

Ngô Kha đọc:

“Mỗi khi Mỹ về, du kích súng rào”

Các o thích chí cười râm ran.

- Hay, cái đó đúng là làng em rồi đó.

Gặp gì Ngô Kha cũng có thể làm thơ. Đây là cô nữ sinh Sài Gòn đi trên đường rừng Trị Thiên:

“Duyên dáng nữ sinh Sài Gòn
Bồng bềnh suối tóc gót son đường rừng
Một thời... sợi nhớ sợi thương.
Dốc cao suối thẳm dặm đường xa xăm”.

Bài thơ tôi thích nhất là bài anh nhận được thư con sau 8 năm xa cách:

“Mấy trăm cây số mà sao vời vợi
Con lật, con đi, con nói bao giờ!
Chắc mẹ vui khi con học i tờ
Mong cha đọc dòng thư thứ nhất

Ôi thời gian, thời gian trong nét mực
Có đời con thành trang sách mới tinh
Nét chữ con hay búp tay xinh
Gửi cho cha chan hòa mặt giấy”

Chuyện cũ Trường Sơn xưa đã mấy chục năm trường, vậy mà nhiều khi ngồi với nhau Ngô Kha còn nói: “Mình thấy như mình chưa ra khỏi rừng”. Tình cảm của anh với những kỷ niệm sâu nặng biết bao.

Ước chi Ngô Kha chép lại những ca dao, hò, vè, thơ và những mẩu chuyện của anh, in lại trong một tập, tôi thèm đọc những xôn xao ngày ấy của anh để được sống lại một thời chúng ta đã sống. Có lẽ đó là một tập sách về Trường Sơn rất thú vị.

N.Q.H 
(264/2-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.