PHẠM XUÂN PHỤNG
Trung Quốc, hãy nhớ!
Biển Đông triệu triệu năm về trước
Bão giật triều dâng tạc dáng hình
Việt Nam ta như chàng Atlas
Buộc mình chống đỡ lũ yêu tinh
Nửa đàn con theo mẹ Âu Cơ
Xẻ núi, khơi sông, dựng cõi bờ
Máu quyện mồ hôi từng tấc đất
Đen lưng cháy mặt vẫn làm thơ
Một nửa đàn con ra biển lớn
Hóa thân thành đảo giữa trùng khơi
Đảo là ngôi nhà, ngọn đèn, đôi mắt
Vì mẹ, ngày đêm giữ biển trời
Nông dân Việt ngàn đời thuần nết lúa
Hiền lành như đất, thật như cơm
Ba xoa hai đạp ăn xong bữa
Chỉ thích hò vè, ngại múa gươm
Ngư dân Việt mê theo luồng lạch
Chỉ ước trời yên, đánh cá xa
Giũ lưới, gái trai vui đối đáp
Đẩy thuyền, chồng vợ hát dân ca
Hai mươi sáu năm rồi, máu Gạc Ma
Hòa chung dòng máu giữ Hoàng Sa
Biển Đông sôi sục lời răn cũ
Cáo gửi bàn chân
Giặc cướp nhà!
Bay tưởng là bay mạnh tột cùng
Hung hăng, ngang ngược dọa lung tung
Tàu to, súng kễnh đe dân Việt
Lớn, mạnh, giàu, tham, ngạo
Hóa khùng!
Ta vẫn bình tâm biểu chúng bay
Rút giàn khoan khỏi biển ta ngay
Ta không mong muốn dân hai nước
Xách súng, giương lê
Bỏ luống cày!
Ta luôn mong muốn dân hai nước
Qua lại thăm nhau mỗi sớm chiều
Đường thủy, đường không vui tấp nập
Nghĩa tình trọn vẹn
Đẹp bao nhiêu!
(SH304/06-14)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi