Trở về

08:42 07/05/2024


FERNANDO SORRENTINO

Nhà văn Fernando Sorrentino - Ảnh: wiki

Nhà văn Fernando Sorrentino sinh tại Buenos Aires, Argentina. Tuổi thơ của ông trải qua trong khung cảnh buồn tẻ của những con đường trong khu phố ông ở. Có thời gian, ông là nhân viên thường trong một công sở. Rồi ông dạy ngôn ngữ và văn chương tại nhiều trường trung học, được học sinh và đồng nghiệp quý mến. Giữa thời gian làm việc, ông cố đọc và viết. Ông thừa nhận mình nhạy cảm với cái đẹp của thơ ca nhưng lại thấy không đủ tài để viết một bài thơ. Ông xé hết những bài thơ đã làm vì thấy chúng vô nghĩa. Ông thấy bằng lòng với bản thân, ông không thích tham gia các hội đoàn văn chương.

Năm 2006 ông in một tuyển tập truyện ngắn bao gồm tất cả tác phẩm của ông, sau đó được dịch ra tiếng Ý, rồi được in trong tạp chí văn học Progetto Babelle. Cũng tạp chí này, mười bảy năm sau ông lại công bố tuyển tập mới. Theo lời kể của chính ông, truyện của ông thường pha trộn tưởng tượng và khôi hài. Ông thú nhận mình thích đọc hơn viết và hiện nay ông viết không nhiều lắm. Cho đến nay, ông đã viết trong ba mươi hai năm với số lượng tác phẩm chỉ có 6 tập truyện ngắn (in từ 1969 đến 1994), một bút ký dài và một tiểu thuyết ngắn. Ông còn viết truyện thiếu nhi và thanh niên. Ông cũng là tác giả hai cuốn phỏng vấn. Khi viết, ông luôn muốn xác định khung cảnh của truyện là một địa điểm ông biết rõ. Ông chỉ nhắm mắt lại và “nhìn thấy” được ngay, chẳng hạn, đó là đường Cóta Rica, ở Buenos Aires, nơi ông sinh ra, sống thời thơ ấu. Khung cảnh của truyện “Trở về” giới thiệu dưới đây chính là nơi này. Tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Anh, Bồ Đào Nha, Ý, Đức, Pháp, Phần Lan, Hungary, Ba Lan, tiếng Ba Tư, tiếng Trung và tiếng Việt.

Truyện ngắn “Trở về” không phải chỉ để giải trí, nó gợi ra nhiều suy nghĩ. “Tôi” trong truyện là người thuật chuyện, hay là nhân vật, hay là chính tác giả?

Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu


Tr về

 

Năm 1965, tôi hai mươi ba tuổi và đang học để làm giáo viên trung học dạy ngôn ngữ và văn chương. Một buổi sáng tháng chín mùa xuân kia, tôi ngồi học trong phòng. Nhà tôi là căn hộ chung cư duy nhất trong dãy phố này, và chúng tôi sống ở tầng sáu.

Tôi cảm thấy hơi lười và thỉnh thoảng lại nhìn bâng quơ ra ngoài cửa sổ. Từ nơi đó tôi có thể quan sát con đường và qua vỉa hè ngang đường, thấy cả khu vườn được tỉa tót cẩn thận của ông lão Don Cesareo, nhà ông nằm ngay góc phố, cắt chéo con đường, thế nên nhà ông có hình dạng giống như một ngũ giác không đều.

Cạnh bên nhà ông Don Cesareo là ngôi nhà xinh xắn của gia đình Bernasconi, những người dễ mến luôn làm những điều tử tế. Họ có ba cô con gái, và tôi đang yêu cô chị đầu Adriana. Thế nên, tôi cứ liếc nhìn về phía vỉa hè bên kia đường, vì trái tim xui khiến nhiều hơn vì mong nhìn thấy nàng vào giờ khắc còn sớm này.

Như mọi ngày, ông Don Cesareo đang tưới cây và chăm sóc khu vườn yêu của ông. Mảnh vườn này được ngăn cách với con đường bởi một hàng rào sắt thấp và ba bậc tam cấp đá.

Phố xá giờ này vắng tanh, thế nên tôi khó lòng không chú ý đến một người đàn ông đang xuất hiện ở dãy nhà bên kia và đang tiến gần đến dãy nhà của chúng tôi theo vỉa hè dẫn đến trước cửa nhà ông Don Cesareo và gia đình Bernasconi. Làm sao tôi không bị cuốn hút cho được bởi người đàn ông kia, bởi đấy là một gã ăn mày hay người lang thang, đang khoác trên mình những tấm giẻ cũ kỹ đủ màu sắc hệt như cầu vồng?

Rậm râu và gầy giơ xương, gã đội trên đầu một chiếc mũ rơm màu vàng nhạt, méo mó. Dù trời nóng bức, gã lại khoác một chiếc áo choàng màu xám rách tả tơi. Thêm vào đó, gã vác theo một bao tải lớn, dơ bẩn, và tôi đoán ắt hẳn trong đó đựng của bố thí và những thức ăn thừa gã lượm lặt được.

Tôi tiếp tục quan sát. Gã lang thang dừng lại trước cửa nhà ông Don Cesareo và gia đình Bernasconi và gã hỏi ông ấy điều gì đó qua cái hàng rào sắt. Don Cesareo là một ông lão cộc cằn, tính tình cáu bẩn. Ông không thèm nghe gã nói mà khua tay làm những cử chỉ như muốn đuổi gã đi. Nhưng gã hành khất vẫn cố nài nỉ, lẩm bẩm van nài. Lát sau tôi nghe ông quát lên:

“Này anh kia, cút đi, đừng quấy rầy tôi nữa!”

Tuy nhiên, gã lang thang vẫn nài nỉ, và giờ đây gã đã leo lên ba bậc đá và vịn vào cái cổng sắt. Thế là, hoàn toàn mất kiên nhẫn, ông Don Cesareo xô gã ra xa với một cú đẩy dữ tợn. Gã hành khất trượt chân trên một hòn đá ẩm ướt, cố gắng chộp lấy một thanh rào nhưng vô hiệu và ngã mạnh xuống đất. Cùng lúc đó, nhanh như chớp mắt, tôi thấy gã té chổng hai chân lên trời, và nghe tiếng xương sọ gã đập vào bậc đá thứ nhất nứt rạn.

Ông Don Cesareo liền chạy xuống đường, cúi xuống xem ngực gã hành khất có còn đập không. Quá hoảng sợ, ông già lập tức túm lấy hai chân và kéo lê gã xuống vỉa hè. Sau đó ông vội vã đi vào nhà, đóng cửa lại để tránh không cho ai thấy tội ngộ sát của mình.

Nhân chứng duy nhất chính là tôi. Chẳng bao lâu, một người đàn ông đi ngang qua và dừng lại bên cạnh gã ăn mày đã chết. Sau đó còn nhiều người khác và thêm nhiều người nữa. Cảnh sát cũng đã tới. Gã hành khất được đặt vào xe cứu thương và chở đi.

Tất cả chỉ có thế, và câu chuyện cũng không bao giờ được nhắc lại nữa.

Về phần mình, tôi cũng cẩn thận không hề hé răng. Có thể hành xử như vậy không tốt, nhưng tôi được lợi lộc gì nếu tôi tố cáo cái người chẳng làm hại gì tôi cả? Mặt khác, ông ta cũng không cố ý giết gã hành khất, và thật là bất nhẫn nếu tôi khiến những năm cuối đời ông ta đầy đau khổ. Tôi nghĩ tốt hơn hết nên để ông một mình cho lương tâm phán xét.

Dần dà tôi cũng đã nguôi ngoai sự việc này, nhưng mỗi khi thấy ông Don Cerareo, tôi lại có cảm giác bứt rứt, khó chịu vì nghĩ rằng ông ấy không thể ngờ tôi là kẻ duy nhất trên thế giới đã chứng kiến bí mật khủng khiếp của ông. Từ đó về sau, tôi không hiểu tại sao tôi lại tránh ông ta và không dám nói chuyện với ông nữa.

*

Năm 1969, khi tôi hai mươi sáu tuổi và đã có bằng giáo viên giảng dạy ngôn ngữ và văn chương Tây Ban Nha. Adriana Bernasconi đã không lấy tôi mà lấy một kẻ đã theo đuổi cô, và nào ai biết được hắn có yêu cô, có xứng đáng với cô như tôi không.

Khoảng thời gian đó, Adriana có thai sắp đến ngày sinh nở. Nàng vẫn ở trong căn nhà xinh đẹp như trước và mỗi ngày nàng trông càng đẹp hơn. Một buổi sáng tháng mười hai ngột ngạt, tôi đang dạy thêm ngữ pháp cho một nhóm học sinh trung học sắp làm bài kiểm tra, và, như lệ thường, tôi buồn rầu liếc mắt qua phía bên kia đường.

Đột nhiên, trái tim tôi bỗng nhảy loạn xạ, và tôi nghĩ mình bị ảo giác.

Đang đi dọc theo cũng chính con đường như bốn năm về trước là gã hành khất mà ông Don Cesareo đã giết: vẫn bộ đồ rách rưới đó, vẫn cái áo khoác xám nhạt đó, cái mũ rơm méo mó đó và cái bao tải bẩn thỉu nữa.

Quên mất bọn học trò, tôi chạy đến cửa sổ. Gã hành khất vội rảo bước như thể sắp gần đích đến.

“Gã đã hồi sinh,” tôi nghĩ, “và gã đến trả thù ông Don Cesario.”

Tuy nhiên, vẫn đi trên vỉa hè của ông già, gã hành khất bước ngang qua hàng rào sắt và tiếp tục đi. Rồi gã dừng lại trước cửa Adriana Bernasconi, đẩy chốt cửa và đi vào nhà.

“Thầy sẽ quay trở lại!” tôi nói với học sinh, và lòng đầy lo âu, tôi đi thang máy xuống dưới, lao ra đường và chạy nhanh vào nhà Adriana.

Mẹ nàng đang đứng gần cửa như sắp ra đi, nói với tôi:

“Ồ, cháu, sao cháu lại ở đây? Thật là một phép mầu!”

Bà luôn có thiện cảm với tôi. Bà ôm hôn tôi, nhưng tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sau đó tôi được biết Adriana vừa được làm mẹ, họ rất vui mừng, phấn khởi, tôi chẳng còn biết làm gì hơn là bắt tay đối thủ của mình.

Tôi không biết nên hỏi gì và phân vân không biết có nên tiếp tục im lặng hay không. Rồi tôi cũng có một quyết định nhanh chóng. Với vẻ bình tĩnh giả vờ, tôi lên tiếng:

“Thật ra cháu không bấm chuông vì cháu nghĩ mình đã thấy một gã hành khất vác một bao tải lớn dơ bẩn đi vào nhà bác, và cháu sợ có thể hắn sẽ trộm thứ gì.”

Họ tỏ vẻ ngạc nhiên: “Hành khất? bao tải? trộm?” Sao lại thế, nãy giờ họ đang ở trong phòng khách và không biết tôi đang nói gì.

“Vậy hẳn là cháu lầm rồi”, tôi nói.

Sau đó họ mời tôi vào phòng nơi Adriana và em bé đang nằm. Trong tình huống như thế, tôi không biết nên nói gì. Tôi chúc mừng nàng, hôn tay nàng, và nhìn đứa bé, tôi hỏi nàng định đặt tên gì. Họ bảo tên Gustavo, giống tên bố cháu, tôi lại thích tên Fernando hơn nhưng tôi không nói gì.

Về đến nhà, tôi nghĩ: Chính là gã hành khất mà Don Cesareo đã giết, mình chắc chắn thế. Gã không đến trả thù, tuy thế, đúng hơn là gã đầu thai làm con của Adriana.

Tuy nhiên, hai hay ba ngày sau, giả thuyết của tôi có vẻ kỳ cục và rồi tôi cũng quên mất.

*

Và lẽ ra tôi hoàn toàn quên mất rồi nếu không có một sự kiện vào năm 1979 khiến tôi nhớ lại.

Thời gian cứ thấm thoắt trôi qua, tôi không còn nhiều nhiệt huyết như xưa. Mỗi khi đọc sách bên cạnh cửa sổ, tôi vẫn để tâm trí mình lơ đãng đây đó và thỉnh thoảng lại phóng tầm mắt liếc nhìn qua bên kia đường.

Con trai của Adriana, Gustavo, đang chơi trên sân thượng nhà mình. Đó là một trò chơi khá trẻ con so với tuổi của nó. Tôi nghĩ thằng nhỏ ắt hẳn phải thừa hưởng trí thông minh khá khiêm tốn của cha nó, bởi nếu nó là con tôi, chắc chắn nó sẽ tìm ra một trò chơi ít nhạt nhẽo hơn.

Nó đặt một dãy những vỏ lon rỗng trên bức tường chìa ra và cố lấy những viên đá ném cho rơi xuống từ khoảng cách ba hay bốn thước. Đương nhiên phần lớn mấy viên đá đều rơi xuống khu vườn của ông hàng xóm Don Cesareo. Ông lão không có ở đó và tôi cam đoan rằng ông sắp sửa nổi trận lôi đình khi phát hiện ra nhiều bông hoa của ông bị hủy hoại cả.

Và ngay lúc đó, Don Cesareo ra khỏi nhà đi vào vườn. Ông đã già nên đi đứng chậm chạp, ông run rẩy đi từng bước một. Ông không đi vào vườn mà ra cổng, sắp sửa bước xuống ba bậc tam cấp để đi xuống vỉa hè.

Cùng lúc đó, Gustavo, - không thấy ông già - rốt cuộc ném trúng một cái vỏ lon. Cái lon văng xuống hai hay ba bậc bao lơn chìa ra khỏi mấy bức tường, rồi rớt xuống vườn ông Don Cesareo gây ra một tiếng động rất lớn. Vừa lúc ấy, ông lão đang ở lưng chừng bậc tam cấp bỗng giật mình khi nghe tiếng động. Ông loạng choạng rồi bất ngờ trượt chân đột ngột không kiểm soát được, đầu đập mạnh vào bậc đá đầu tiên.

Tôi thấy tất cả điều đó, nhưng thằng bé lẫn ông già thì không nhìn thấy nhau. Vì lý do nào đó, Gustavo đi khỏi sân thượng. Một vài giây sau, rất nhiều người đã tụm lại quanh xác của Don Cesareo, và hiển nhiên là cú ngã là nguyên nhân cái chết của ông lão.

Ngày hôm sau, tôi dậy từ rất sớm và lập tức đến ngay cửa sổ nhìn sang bên kia đường. Đám tang của ông Don Cesareo được tổ chức trong ngôi nhà hình ngũ giác. Một vài người đang hút thuốc và trò chuyện trên lề đường trước cửa nhà ông.

Một lát sau, những người này bỗng đứng dạt ra một bên, có vẻ bối rối khi một gã hành khất từ nhà cô Adriana Bernasconi bước ra, lại một lần nữa khoác cái áo rách rưới, đội chiếc mũ rơm, và cả cái túi. Gã chậm chạp băng qua đám đàn ông và đàn bà đang tụ tập, rồi dần dần mất hút ở đằng xa, cùng một hướng mà hai lần trước gã đã tới.

Đến trưa, thật đáng buồn nhưng không hề bất ngờ khi tôi nghe tin rằng sáng hôm đó mọi người không còn thấy thằng bé Gustavo ở trên giường của nó. Gia đình Bernasconi đã bắt đầu tuyệt vọng. Với hy vọng mong manh, họ vẫn tiếp tục tìm kiếm cho đến bây giờ. Mà tôi thì chẳng thể nhẫn tâm bảo họ thôi hãy đừng tìm nữa.

F.S
Nguồn: https://www.eastoftheweb.com/short-stories/UBooks/Retu.shtml
(TCSH52SDB/03-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ALICE MUNRO

    LGT: Alice Munro sinh ngày 10 tháng bảy năm 1931 ở Wingham, Ontario, Canada, với tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha của bà là chủ nông trại, mẹ là cô giáo.

  • LGT: Romain Gary tên thật là Romain Kacew, sinh năm 1914 tại Moskva và được nuôi dưỡng bởi một người mẹ đã đặt rất nhiều kỳ vọng nơi con trai mình. Năm 14 tuổi, ông theo mẹ đến Pháp và định cư tại Nice.

  • IURI BONDAREP

    Lần đầu tiên, chúng tôi nhìn thấy cô ta ở cạnh bàn bóng bàn ở sân hành lang nhà an dưỡng. Cô mặc chiếc áo len dài tay màu xanh, chiếc váy thật thẳng nếp, mái tóc màu sáng được cắt ngắn, và cứ mỗi lần vụt rơkét cô lại hất mạnh những sợi tóc vương khỏi trán. Những lúc như vậy, đôi mắt nâu đen của cô lại mỉm cười.

  • O.HENRY

    Rất lâu trước khi bụng dạ lờ đờ của anh nhà quê cảm nhận được hơi xuân thì tay thị dân ấy đã biết rằng bà chúa xanh màu cỏ ấy đã lên ngôi.

  • LTS: Trong 24 bài trong tập Cỏ dại của nhà văn Lỗ Tấn do GS. Trần Đình Sử dịch, Sông Hương số tháng 10 năm 2011 đã giới thiệu đến bạn đọc 3 bài “Sau khi chết”, “Sự giã từ của cái bóng” và “Sự run rẩy trên đường đồi bại”. Kỳ này Sông Hương xin giới thiệu tiếp với bạn đọc 4 bài chọn lọc từ Cỏ dại.

  • VILIAM KHÂYNÊXEN (Đan Mạch)

    Khi Lêô tỉnh giấc, trong tai anh vẫn còn vang lên những lời của ông giáo sĩ giảng đạo.

  • LGT: Nhà văn, nhà nghiên cứu sử học và văn hóa Mỹ Jon Holmes sinh ra tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng công nghệ Texas nơi ông từng tham gia phong trào nhân quyền và phản chiến, Jon Holmes chuyển đến New York làm việc cho một tạp chí nhiếp ảnh và phụ trách một chương trình sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ hiện đại cho một đại công ty ở Bos- ton.

  • KNUT HAMSUN (*)

    Do tôi viết. Viết vào ngày hôm nay cho trái tim vơi nhẹ đi. Tôi đã mất chỗ làm ở tiệm cà phê cùng những ngày sung sướng của tôi. Tất thảy mọi thứ, tôi đã mất hết. Và tiệm cà phê ấy là tiệm cà phê Mắcximilăng.

  • HENRY JAMES 
         (Tiếp theo Sông Hương số 290 tháng 4/2013)

    Một buổi sáng (tôi cho là ở gần La Spezia) Harold đang vẽ bên gốc cây, không xa quán trọ, tôi ngồi cạnh, lớn tiếng đọc Shelley(18) - người có thể chứng tỏ được trìu mến hơn bất cứ ai.

  • ELENA PUCILLO TRUONG

    Nỗi khắc khoải đã kéo dài từ bao lâu?
    Có lẽ một năm. Quá nhiều. Lấy cớ đi vào toilette, hai tay tôi nắm chặt chiếc bồn rửa mặt trong nhà hàng như muốn bẻ làm đôi. Bao nhiêu bức bối đang dồn vào trong... bao nhiêu đau đớn... đau đến nỗi tôi không dám ngẩng mặt nhìn bóng mình trong gương.

  • Henry James (1843 - 1916), nhà văn Mỹ viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học và nghệ thuật Pháp. Ông định cư ở Londres, Anh từ 1876. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009), nội dung thể hiện ở nhiều chủ đề như: ý thức, tâm lý, mơ mộng, tình cảm, vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.

  • FRANÇOIS CHENG
    (Trích từ tác phẩm Khi những linh hồn lang thang trở về)

    Dưới gầm trời này, dưới cái gầm trời rất thấp này, tất cả đều có thăng có trầm, tất cả đều bị biến đổi. Tác phẩm về Những đột biến đã chỉ rõ điều đó, tổ tiên chúng ta đã nói: “Cứ năm năm thì có chuyển biến nhỏ, cứ năm trăm năm thì có đại đột biến”.

  • L.T.S: Sherwood Anderson (1876 - 1941) là nhà văn lớn của Mỹ. Ông có nhiều tư tưởng tiến bộ, và thường tỏ thiện cảm với những lực lượng vô sản cách mạng Mỹ, đặc biệt là trong những năm 1931 - 1935. Truyện ngắn "Những ngọn đèn chưa thắp" (Unlighted Lamps) của ông dưới đây được liệt vào một trong những chuyện ngắn xuất sắc trong nền văn học Mỹ từ trước đến nay. Câu chuyện về bi kịch nội tâm của những con người không phá vỡ nổi bức tường ngăn cách giữa những tình thân và cho đến khi nhắm mắt vẫn chưa kịp thắp lên ngọn lửa thông cảm.

  • Elena Pucillo Truong là người Ý, Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài (Đại học Milano Italia). Cô dạy tiếng Pháp và Văn minh Pháp tại Milano từ năm 1982 và gần đây có dạy tiếng Ý tại Nhạc Viện, tại phòng lãnh sự danh dự Ý và tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM.

  • LGT: Etgar Keret sinh ngày 20/8/1967 tại Ramat Gan, Israel. Nhà văn nổi tiếng với truyện ngắn và kịch bản phim, có ảnh hưởng lớn tới lớp nhà văn trẻ hiện nay ở Israel.

  • L.T.S: Narayan là nhà văn miền Nam Ấn Độ, sáng tác bằng tiếng Anh. Sinh 10/10 năm 1906 tại làng Madras (mất 13/5/2001), từng sống ở thành phố Mysore cổ kính của quê hương ông.

  • Ferit Edgu sinh năm 1936, từng sống sáu năm ở Paris học chuyên ngành gốm. Trong nhiều năm ông là người viết kịch bản quảng cáo và rồi điều hành một nhà xuất bản. Sự vô lý của cuộc đời, những ám ảnh dục tính, sự sa đọa và sự bất hòa của người trí thức là những chủ đề của ông.

  • HEINRICH BÖLL (CHLB Đức)

    (Heinrich Böll sinh 1917, mất 7-85 - giải thưởng Nôbel văn học 1972)

  • Ngoài các tác phẩm lớn về Việt Nam như Vạn Xuân, Lãn Ông, mấy năm gần đây, nữ văn sĩ Pháp Yveline Feray đã cho ra đời những tập truyện thần thoại và dân gian của các nước châu Á như Việt Nam, Trung Hoa, Campuchia, Tây Tạng. Vào cuối năm 2010, bà đã cho xuất bản tập “Chuyện kể của bà ngoại Ấn Độ”.

  • AKUTAHAVA RIUNÔXKÊ (Nhật Bản)

    Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết bàn.
    Cả đầm toàn là sen trắng trong như ngọc, và nhị sen vàng tỏa ra xung quanh một mùi thơm ngọt, ngạt ngào.