FERNANDO SORRENTINO
Nhà văn Fernando Sorrentino - Ảnh: wiki
Nhà văn Fernando Sorrentino sinh tại Buenos Aires, Argentina. Tuổi thơ của ông trải qua trong khung cảnh buồn tẻ của những con đường trong khu phố ông ở. Có thời gian, ông là nhân viên thường trong một công sở. Rồi ông dạy ngôn ngữ và văn chương tại nhiều trường trung học, được học sinh và đồng nghiệp quý mến. Giữa thời gian làm việc, ông cố đọc và viết. Ông thừa nhận mình nhạy cảm với cái đẹp của thơ ca nhưng lại thấy không đủ tài để viết một bài thơ. Ông xé hết những bài thơ đã làm vì thấy chúng vô nghĩa. Ông thấy bằng lòng với bản thân, ông không thích tham gia các hội đoàn văn chương. Năm 2006 ông in một tuyển tập truyện ngắn bao gồm tất cả tác phẩm của ông, sau đó được dịch ra tiếng Ý, rồi được in trong tạp chí văn học Progetto Babelle. Cũng tạp chí này, mười bảy năm sau ông lại công bố tuyển tập mới. Theo lời kể của chính ông, truyện của ông thường pha trộn tưởng tượng và khôi hài. Ông thú nhận mình thích đọc hơn viết và hiện nay ông viết không nhiều lắm. Cho đến nay, ông đã viết trong ba mươi hai năm với số lượng tác phẩm chỉ có 6 tập truyện ngắn (in từ 1969 đến 1994), một bút ký dài và một tiểu thuyết ngắn. Ông còn viết truyện thiếu nhi và thanh niên. Ông cũng là tác giả hai cuốn phỏng vấn. Khi viết, ông luôn muốn xác định khung cảnh của truyện là một địa điểm ông biết rõ. Ông chỉ nhắm mắt lại và “nhìn thấy” được ngay, chẳng hạn, đó là đường Cóta Rica, ở Buenos Aires, nơi ông sinh ra, sống thời thơ ấu. Khung cảnh của truyện “Trở về” giới thiệu dưới đây chính là nơi này. Tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Anh, Bồ Đào Nha, Ý, Đức, Pháp, Phần Lan, Hungary, Ba Lan, tiếng Ba Tư, tiếng Trung và tiếng Việt. Truyện ngắn “Trở về” không phải chỉ để giải trí, nó gợi ra nhiều suy nghĩ. “Tôi” trong truyện là người thuật chuyện, hay là nhân vật, hay là chính tác giả? Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu |
Trở về
Năm 1965, tôi hai mươi ba tuổi và đang học để làm giáo viên trung học dạy ngôn ngữ và văn chương. Một buổi sáng tháng chín mùa xuân kia, tôi ngồi học trong phòng. Nhà tôi là căn hộ chung cư duy nhất trong dãy phố này, và chúng tôi sống ở tầng sáu.
Tôi cảm thấy hơi lười và thỉnh thoảng lại nhìn bâng quơ ra ngoài cửa sổ. Từ nơi đó tôi có thể quan sát con đường và qua vỉa hè ngang đường, thấy cả khu vườn được tỉa tót cẩn thận của ông lão Don Cesareo, nhà ông nằm ngay góc phố, cắt chéo con đường, thế nên nhà ông có hình dạng giống như một ngũ giác không đều.
Cạnh bên nhà ông Don Cesareo là ngôi nhà xinh xắn của gia đình Bernasconi, những người dễ mến luôn làm những điều tử tế. Họ có ba cô con gái, và tôi đang yêu cô chị đầu Adriana. Thế nên, tôi cứ liếc nhìn về phía vỉa hè bên kia đường, vì trái tim xui khiến nhiều hơn vì mong nhìn thấy nàng vào giờ khắc còn sớm này.
Như mọi ngày, ông Don Cesareo đang tưới cây và chăm sóc khu vườn yêu của ông. Mảnh vườn này được ngăn cách với con đường bởi một hàng rào sắt thấp và ba bậc tam cấp đá.
Phố xá giờ này vắng tanh, thế nên tôi khó lòng không chú ý đến một người đàn ông đang xuất hiện ở dãy nhà bên kia và đang tiến gần đến dãy nhà của chúng tôi theo vỉa hè dẫn đến trước cửa nhà ông Don Cesareo và gia đình Bernasconi. Làm sao tôi không bị cuốn hút cho được bởi người đàn ông kia, bởi đấy là một gã ăn mày hay người lang thang, đang khoác trên mình những tấm giẻ cũ kỹ đủ màu sắc hệt như cầu vồng?
Rậm râu và gầy giơ xương, gã đội trên đầu một chiếc mũ rơm màu vàng nhạt, méo mó. Dù trời nóng bức, gã lại khoác một chiếc áo choàng màu xám rách tả tơi. Thêm vào đó, gã vác theo một bao tải lớn, dơ bẩn, và tôi đoán ắt hẳn trong đó đựng của bố thí và những thức ăn thừa gã lượm lặt được.
Tôi tiếp tục quan sát. Gã lang thang dừng lại trước cửa nhà ông Don Cesareo và gia đình Bernasconi và gã hỏi ông ấy điều gì đó qua cái hàng rào sắt. Don Cesareo là một ông lão cộc cằn, tính tình cáu bẩn. Ông không thèm nghe gã nói mà khua tay làm những cử chỉ như muốn đuổi gã đi. Nhưng gã hành khất vẫn cố nài nỉ, lẩm bẩm van nài. Lát sau tôi nghe ông quát lên:
“Này anh kia, cút đi, đừng quấy rầy tôi nữa!”
Tuy nhiên, gã lang thang vẫn nài nỉ, và giờ đây gã đã leo lên ba bậc đá và vịn vào cái cổng sắt. Thế là, hoàn toàn mất kiên nhẫn, ông Don Cesareo xô gã ra xa với một cú đẩy dữ tợn. Gã hành khất trượt chân trên một hòn đá ẩm ướt, cố gắng chộp lấy một thanh rào nhưng vô hiệu và ngã mạnh xuống đất. Cùng lúc đó, nhanh như chớp mắt, tôi thấy gã té chổng hai chân lên trời, và nghe tiếng xương sọ gã đập vào bậc đá thứ nhất nứt rạn.
Ông Don Cesareo liền chạy xuống đường, cúi xuống xem ngực gã hành khất có còn đập không. Quá hoảng sợ, ông già lập tức túm lấy hai chân và kéo lê gã xuống vỉa hè. Sau đó ông vội vã đi vào nhà, đóng cửa lại để tránh không cho ai thấy tội ngộ sát của mình.
Nhân chứng duy nhất chính là tôi. Chẳng bao lâu, một người đàn ông đi ngang qua và dừng lại bên cạnh gã ăn mày đã chết. Sau đó còn nhiều người khác và thêm nhiều người nữa. Cảnh sát cũng đã tới. Gã hành khất được đặt vào xe cứu thương và chở đi.
Tất cả chỉ có thế, và câu chuyện cũng không bao giờ được nhắc lại nữa.
Về phần mình, tôi cũng cẩn thận không hề hé răng. Có thể hành xử như vậy không tốt, nhưng tôi được lợi lộc gì nếu tôi tố cáo cái người chẳng làm hại gì tôi cả? Mặt khác, ông ta cũng không cố ý giết gã hành khất, và thật là bất nhẫn nếu tôi khiến những năm cuối đời ông ta đầy đau khổ. Tôi nghĩ tốt hơn hết nên để ông một mình cho lương tâm phán xét.
Dần dà tôi cũng đã nguôi ngoai sự việc này, nhưng mỗi khi thấy ông Don Cerareo, tôi lại có cảm giác bứt rứt, khó chịu vì nghĩ rằng ông ấy không thể ngờ tôi là kẻ duy nhất trên thế giới đã chứng kiến bí mật khủng khiếp của ông. Từ đó về sau, tôi không hiểu tại sao tôi lại tránh ông ta và không dám nói chuyện với ông nữa.
*
Năm 1969, khi tôi hai mươi sáu tuổi và đã có bằng giáo viên giảng dạy ngôn ngữ và văn chương Tây Ban Nha. Adriana Bernasconi đã không lấy tôi mà lấy một kẻ đã theo đuổi cô, và nào ai biết được hắn có yêu cô, có xứng đáng với cô như tôi không.
Khoảng thời gian đó, Adriana có thai sắp đến ngày sinh nở. Nàng vẫn ở trong căn nhà xinh đẹp như trước và mỗi ngày nàng trông càng đẹp hơn. Một buổi sáng tháng mười hai ngột ngạt, tôi đang dạy thêm ngữ pháp cho một nhóm học sinh trung học sắp làm bài kiểm tra, và, như lệ thường, tôi buồn rầu liếc mắt qua phía bên kia đường.
Đột nhiên, trái tim tôi bỗng nhảy loạn xạ, và tôi nghĩ mình bị ảo giác.
Đang đi dọc theo cũng chính con đường như bốn năm về trước là gã hành khất mà ông Don Cesareo đã giết: vẫn bộ đồ rách rưới đó, vẫn cái áo khoác xám nhạt đó, cái mũ rơm méo mó đó và cái bao tải bẩn thỉu nữa.
Quên mất bọn học trò, tôi chạy đến cửa sổ. Gã hành khất vội rảo bước như thể sắp gần đích đến.
“Gã đã hồi sinh,” tôi nghĩ, “và gã đến trả thù ông Don Cesario.”
Tuy nhiên, vẫn đi trên vỉa hè của ông già, gã hành khất bước ngang qua hàng rào sắt và tiếp tục đi. Rồi gã dừng lại trước cửa Adriana Bernasconi, đẩy chốt cửa và đi vào nhà.
“Thầy sẽ quay trở lại!” tôi nói với học sinh, và lòng đầy lo âu, tôi đi thang máy xuống dưới, lao ra đường và chạy nhanh vào nhà Adriana.
Mẹ nàng đang đứng gần cửa như sắp ra đi, nói với tôi:
“Ồ, cháu, sao cháu lại ở đây? Thật là một phép mầu!”
Bà luôn có thiện cảm với tôi. Bà ôm hôn tôi, nhưng tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sau đó tôi được biết Adriana vừa được làm mẹ, họ rất vui mừng, phấn khởi, tôi chẳng còn biết làm gì hơn là bắt tay đối thủ của mình.
Tôi không biết nên hỏi gì và phân vân không biết có nên tiếp tục im lặng hay không. Rồi tôi cũng có một quyết định nhanh chóng. Với vẻ bình tĩnh giả vờ, tôi lên tiếng:
“Thật ra cháu không bấm chuông vì cháu nghĩ mình đã thấy một gã hành khất vác một bao tải lớn dơ bẩn đi vào nhà bác, và cháu sợ có thể hắn sẽ trộm thứ gì.”
Họ tỏ vẻ ngạc nhiên: “Hành khất? bao tải? trộm?” Sao lại thế, nãy giờ họ đang ở trong phòng khách và không biết tôi đang nói gì.
“Vậy hẳn là cháu lầm rồi”, tôi nói.
Sau đó họ mời tôi vào phòng nơi Adriana và em bé đang nằm. Trong tình huống như thế, tôi không biết nên nói gì. Tôi chúc mừng nàng, hôn tay nàng, và nhìn đứa bé, tôi hỏi nàng định đặt tên gì. Họ bảo tên Gustavo, giống tên bố cháu, tôi lại thích tên Fernando hơn nhưng tôi không nói gì.
Về đến nhà, tôi nghĩ: Chính là gã hành khất mà Don Cesareo đã giết, mình chắc chắn thế. Gã không đến trả thù, tuy thế, đúng hơn là gã đầu thai làm con của Adriana.
Tuy nhiên, hai hay ba ngày sau, giả thuyết của tôi có vẻ kỳ cục và rồi tôi cũng quên mất.
*
Và lẽ ra tôi hoàn toàn quên mất rồi nếu không có một sự kiện vào năm 1979 khiến tôi nhớ lại.
Thời gian cứ thấm thoắt trôi qua, tôi không còn nhiều nhiệt huyết như xưa. Mỗi khi đọc sách bên cạnh cửa sổ, tôi vẫn để tâm trí mình lơ đãng đây đó và thỉnh thoảng lại phóng tầm mắt liếc nhìn qua bên kia đường.
Con trai của Adriana, Gustavo, đang chơi trên sân thượng nhà mình. Đó là một trò chơi khá trẻ con so với tuổi của nó. Tôi nghĩ thằng nhỏ ắt hẳn phải thừa hưởng trí thông minh khá khiêm tốn của cha nó, bởi nếu nó là con tôi, chắc chắn nó sẽ tìm ra một trò chơi ít nhạt nhẽo hơn.
Nó đặt một dãy những vỏ lon rỗng trên bức tường chìa ra và cố lấy những viên đá ném cho rơi xuống từ khoảng cách ba hay bốn thước. Đương nhiên phần lớn mấy viên đá đều rơi xuống khu vườn của ông hàng xóm Don Cesareo. Ông lão không có ở đó và tôi cam đoan rằng ông sắp sửa nổi trận lôi đình khi phát hiện ra nhiều bông hoa của ông bị hủy hoại cả.
Và ngay lúc đó, Don Cesareo ra khỏi nhà đi vào vườn. Ông đã già nên đi đứng chậm chạp, ông run rẩy đi từng bước một. Ông không đi vào vườn mà ra cổng, sắp sửa bước xuống ba bậc tam cấp để đi xuống vỉa hè.
Cùng lúc đó, Gustavo, - không thấy ông già - rốt cuộc ném trúng một cái vỏ lon. Cái lon văng xuống hai hay ba bậc bao lơn chìa ra khỏi mấy bức tường, rồi rớt xuống vườn ông Don Cesareo gây ra một tiếng động rất lớn. Vừa lúc ấy, ông lão đang ở lưng chừng bậc tam cấp bỗng giật mình khi nghe tiếng động. Ông loạng choạng rồi bất ngờ trượt chân đột ngột không kiểm soát được, đầu đập mạnh vào bậc đá đầu tiên.
Tôi thấy tất cả điều đó, nhưng thằng bé lẫn ông già thì không nhìn thấy nhau. Vì lý do nào đó, Gustavo đi khỏi sân thượng. Một vài giây sau, rất nhiều người đã tụm lại quanh xác của Don Cesareo, và hiển nhiên là cú ngã là nguyên nhân cái chết của ông lão.
Ngày hôm sau, tôi dậy từ rất sớm và lập tức đến ngay cửa sổ nhìn sang bên kia đường. Đám tang của ông Don Cesareo được tổ chức trong ngôi nhà hình ngũ giác. Một vài người đang hút thuốc và trò chuyện trên lề đường trước cửa nhà ông.
Một lát sau, những người này bỗng đứng dạt ra một bên, có vẻ bối rối khi một gã hành khất từ nhà cô Adriana Bernasconi bước ra, lại một lần nữa khoác cái áo rách rưới, đội chiếc mũ rơm, và cả cái túi. Gã chậm chạp băng qua đám đàn ông và đàn bà đang tụ tập, rồi dần dần mất hút ở đằng xa, cùng một hướng mà hai lần trước gã đã tới.
Đến trưa, thật đáng buồn nhưng không hề bất ngờ khi tôi nghe tin rằng sáng hôm đó mọi người không còn thấy thằng bé Gustavo ở trên giường của nó. Gia đình Bernasconi đã bắt đầu tuyệt vọng. Với hy vọng mong manh, họ vẫn tiếp tục tìm kiếm cho đến bây giờ. Mà tôi thì chẳng thể nhẫn tâm bảo họ thôi hãy đừng tìm nữa.
F.S
Nguồn: https://www.eastoftheweb.com/short-stories/UBooks/Retu.shtml
(TCSH52SDB/03-2024)
ANTONIO TABUCCHIAntonio Tabucchi (sinh năm 1945) là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và dịch nhiều nhất hiện nay của Italia, bậc thầy nổi tiếng về truyện ngắn tâm lý.
IVAN BUNHINLúc ông ta đội mũ, đi trên phố hay đứng trong toa tàu điện ngầm không thấy rõ mái tóc cắt ngắn hung hung đỏ có những sợi lóng lánh, qua vẻ tươi tỉnh của gương mặt gầy, nhẵn nhụi, thân hình cao xương xương cứng đơ trong chiếc pan- tô không thấm, có thể đoán ông không quá 40. Chỉ cặp mắt xám nhạt luôn chứa một nỗi buồn khô khốc nói lên rằng ông là một người đã nếm trải nhiều trong cuộc đời.
LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.
BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.