NGUYỄN QUANG HÀ
Ký
Vừa mới hôm nào nhận thư Phong Sơn báo tin năm nay sẽ được mùa lớn. Lúa phơi màu rất đẹp.
Đất trời xã Phong Sơn - Ảnh: internet
Phong Sơn quyết tâm sẽ làm hai việc có ý nghĩa. Một là điều hòa phân phối cho các gia đình chính sách thật tốt. Hai là xã sẽ trích ra một tấn rưỡi thóc, tặng cho năm chục thầy cô giáo dạy ở Phong Sơn, gọi là ăn cái lộc với nhau. Đùng một cái, nghe Phong Sơn mất mùa, trắng tay. Tôi với Tô Nhuận Vỹ vội vàng về thăm bà con.
Đúng cái lúc hạt lúa vừa no sức, uốn câu, thì bọ xít tràn từ trong rừng ra, hiềm ở chỗ, giống sâu này không ăn lá, ăn rễ, mà cắn ngay cổ bông lúa, hút hết nhựa chuyển từ dưới lên. Sữa trong hạt lúa teo đi. Có bông dài cả trăm hạt, chỉ đậu hai ba hạt. Dân Phong Sơn đổ ra đồng diệt sâu, bắt bằng tay, bằng vợt, bằng cả lưới cũng không xuể. Tổng cộng, cả xã bắt tới năm tạ bọ xít, mà mất mùa vẫn hoàn mất mùa. Đúng ra, theo kế hoạch, vụ này Phong Sơn sẽ giao nộp cả thuế, cả hai chiều cho Nhà nước hai trăm sáu mươi tấn. Vậy mà chỉ mỗi hợp tác xã Bắc Sơn vét kho, nộp cho Nhà nước được hai tấn.
Tôi hỏi:
- Vậy thì làm sao để sống?
Anh Bùi Xuân Hãn, Bí thư xã trả lời:
- Dân tôi quen lần hồi rồi. Và chắc huyện sẽ không bỏ. Cũng sẽ qua được tới vụ trái. Song, chúng tôi thấy yên tâm ở chỗ này: mất mùa lúa nhưng Phong Sơn được mùa tình cảm. Từ ngày bài "Luận chứng của một tâm hồn đa cảm" ra đời đến nay, từ một xã gần như bị bỏ rơi, Phong Sơn đặc biệt được sự quan tâm của huyện. Bí thư, Chủ tịch Thường vụ, ủy ban về xã đều đều, nhất là các kỳ hội họp mít-tinh thì huyện về rất đông, Phó chủ tịch Trình đi bộ lên tận bản Thái xem xét tình hình. Còn anh Quyết, Thường vụ được phân công phụ trách Phong Sơn, không còn quan liêu như ông Đoàn xưa nữa. Quyết chân tình, năng nổ, về từng cơ sở đấu tranh, bàn bạc như một cán bộ xã thực thụ tâm huyết với phong trào. Không làm cũng không được với anh ấy. Anh coi, không còn cảnh thường vụ xoạc cẳng trên Hon-đa hống hách nữa- như chợt nhớ ra, anh Hãn gật gù - đồng chí Bí thư huyện ủy nói đúng: nếu không có sự đầu tư của huyện, Phong Sơn sau chiến tranh bị tàn phá nhường ấy không thể ngóc đầu lên được.
Phan Ngọc Châu, Chủ tịch xã trình bày kỹ càng hơn.
- Huyện cấp cho xã tám trăm nghìn đồng để tu sửa và thuốc thang cho trạm xá. Bảy trăm nghìn cho bệnh viện đa khoa. Đập nước khe Quao đã được khảo sát. Huyện đã ghi trong nghị quyết đầu tư cho Phong Sơn ba triệu rưỡi làm trạm bơm.
Bữa anh Lê Bá Tạo, Giám đốc Ngân hàng tỉnh về thăm Phong Sơn, thì đúng là mở lòng ra với nhau.
- Phong Sơn vất vả, nghèo khó thế nào tôi biết rồi. Bây giờ các anh cần gì ở Ngân hàng tỉnh cứ nói. Với tư cách Giám đốc, cái gì giúp được, tôi giúp.
Anh Châu đề nghị ngay:
- Xin anh cho mua chiếc máy kéo M.T.Z.
Anh Tạo gật đầu:
- Đồng ý.
- Đã có mười bảy máy bơm chạy than, xin cho thay bằng máy chạy dầu.
- Đợt đầu cho thay năm máy.
- Xin anh cho mua chiếc máy cày?
- Không. Địa hình Phong Sơn dùng máy cày ít hiệu quả. Các anh có 2.000 héc-ta đất, Ngân hàng sẽ đầu tư đủ sức kéo bằng trâu bò cho các anh. Và ở đây có nhiều cỏ, sẽ đầu tư thỏa mãn cho việc phát triển trâu bò đàn.
Chiều hôm ấy về làm việc với Ngân hàng huyện Hương Điền, anh Tạo chỉ thị:
- Ta không đủ sức giúp đại trà. Nhưng giúp Phong Sơn là một nghĩa vụ. Đây là tiền đưa thẳng từ tỉnh về. Các anh đừng bớt xén, đừng gây khó khăn gì cho họ cả...
Phan Ngọc Châu hôm ấy nói một câu đầy xúc động như chính lòng anh đang xúc động: "Phong Sơn được sống một ngày như trong mơ".
Cái hôm chủ nhiệm Thân đưa được chiếc MTZ về, cả làng, lớn bé già trẻ đổ xô ra, xúm quanh chiếc máy mới cứng, ai cũng ngỡ ngàng không dám tin rằng nó đã là của mình. Đến lúc chiếc MTZ ban đêm thì guồng nước lên đồng, ban ngày cày đất phăm phăm, xong cày cấy, nó lại làm công việc vận tải cho cả xã, thì lúc ấy, ai cũng tin rằng xã mình bắt đầu đổi mới...
Không khí ra quân làm thủy lợi của hợp tác xã Tây Sơn là không khí của lòng tự tin. Ba nghìn dân công dồn sức cho hồ Sen, các đường mương được mở mang, kéo dài. Nước dồn tụ và bắt đầu chảy theo sự hướng dẫn của bàn tay con người: Cho đến hôm nay có thể công bố một con số lạc quan: Tây Sơn đã trồng được tám mươi sáu héc-ta bạch đàn, dương liễu. Năm mười năm nữa, cánh rừng Tân Sinh này sẽ là một câu trả lời đầy ý nghĩa. Và công trình hồ sen mới đắp, tưới cả một trăm năm mươi tám héc ta lúa đồng xuân, Tây Sơn hầu như bỏ quên những máy bơm của mình. Tính ra, riêng vụ đông xuân, Tây Sơn đã tiết kiệm được khoản chi phí cho công tát nước là 560.000 đồng. Đó chẳng phải là nhân chứng của một ý thức mới đó sao?
Phong Sơn dám hy sinh của cải, tài năng cho những ý thức mới của mình. Chẳng vậy mà dân số trong xã: bảy nghìn khẩu thì đã có sáu trăm năm mươi liệt sĩ rồi.
Trong buổi nhận Huân chương, anh Nguyễn Văn Dự, một người có công trong kháng chiến đã nói rất cảm động:
- Ý chí đánh giặc của chúng ta đã từng như thế. Cũng những gia đình này, cũng những đất đai này, chẳng lẽ bây giờ dựng lại cuộc đời, ta không đùm bọc được nhau, không sát cánh cùng nhau, dìu nhau đứng dậy mà đi được sao? Cơ chi lại để cho đất này điêu tàn được?
Nhiều người nghe anh nói đã òa khóc. Hôm ấy trời mưa sụt sùi. Cả ngàn người ngồi dưới trời mưa không nhúc nhích. Đại biểu huyện ủy và ủy ban về cũng trần đầu dưới mưa...
Tôi cảm giác được rất rõ Phong Sơn đã mới, có cái mới. Còn việc lột xác, đâu phải ngày một ngày hai. Chắc chắn sẽ còn cụng đầu, biêu trán. Như việc Phong Sơn mua chiếc MTZ vừa rồi. Rất tốt. Dân phấn khởi. Nhưng nó đau lòng ở chỗ này: chủ nhiệm Đông Sơn phải ăn chực năm chờ, đi đi lại lại suốt sáu tháng mới lấy được máy về. Và đau lòng hơn nữa là giá tiền mua máy chỉ hết ba trăm năm mươi nghìn đồng. Còn số tiền chi phí cho tiêu cực, cái danh từ hiện đại của nó là: TIÊU CỰC PHÍ, đã lên tới 500.000 đồng. Số tiền này đổ lên đầu lên cổ ai? Nguy hiểm hơn là làm sao trình bày để dân hiểu cho, chấp nhận cho việc chi tiêu phi lý này. Chẳng biết bao giờ mới chấm dứt kiểu nặn hầu bóp cổ, kiểu cướp ngày như thế này!
![]() |
Đường làng xã Phong Sơn - Ảnh: internet |
Chuyện mới nhất là Phong Sơn chạy đi ủy ban kế hoạch tỉnh, Bí thư tỉnh ủy xin quyết định mua ba chục tấn xi măng về xây kho, làm nhà tập thể cho giáo viên.
Ông giám đốc Xí nghiệp Long Thọ duyệt ký bán. Nhưng làm xong thủ tục thì giá xi măng từ mười bốn ngàn đồng lên mười tám ngàn đồng một tấn. Phong Sơn mất đứt 120.000 đồng.
Phong Sơn đi một bước, gặp một bước khó khăn như thế, có muốn ngóc đầu dậy, đâu có dễ dàng.
Làm thế nào để dân có miếng ăn từ nay đến vụ trái. Đất đang hạn, dầu chạy máy lấy ở đâu? Nếu lúa trổ, bọ xít lại tràn ra, lấy thuốc sâu đâu mà trị? Một việc cũng khá bức thiết là việc xây cầu kho cho Bắc Sơn. Không có cầu, Bắc Sơn như một hòn đảo, đi một bước cũng đò ngang cách trở. Lấy đâu vốn, lấy đâu nguyên liệu bây giờ?...
Chúng tôi đi quanh một vòng. Quả thật ở Phong Sơn còn nhiều điều phải nói tới. Mùa hoa mua đang nở rộ, thiếu nước, hoa héo queo thế kia. Cây hoang dại còn thế, cây lúa sao đây? Rồi bản Thái, một bản dân tộc ở vùng chiến khu cũ, 139 nhân khẩu, chục năm nay chưa có lớp có trường. Chính sách đối với đồng bào dân tộc, thế là sai rồi. Vậy mà Trưởng phòng giáo dục nói:
- Tôi không biết có cái bản dân tộc này!
Lạ chưa? nhân đây cũng nói thêm, hiện nay ở Hương Điền có một vạn em ở tuổi đến trường mà không có lớp học. Phòng giáo dục phàn nàn: Chúng tôi có hàng ngàn lớp, hàng ngàn địa điểm phải đến mà không có phương tiện. Phải chi chúng tôi là đơn vị kinh doanh chắc chắn có xe con rồi.
Rồi chúng tôi tới bệnh viện đa khoa của huyện cắm tại Phong Sơn. Có thể nói nó tiêu điều quá! Thuốc đã thiếu, giường chiếu lại èo ọt. Thầy thuốc và bệnh nhân không ra thầy thuốc và bệnh nhân. Nếu không được giới thiệu đây là bệnh viện đa khoa, thì không biết gọi nó là gì cho đúng. Tôi chợt nhớ tới cái bệnh viện đa khoa cũng của huyện đóng ở cây số 17, nó sinh sau đẻ muộn hơn nhiều, song nó khang trang sáng sủa, hoàn chỉnh một cách mỹ mãn. Sự khác nhau đó là cái gì? Chẳng lẽ lại giải thích rằng: Bệnh viện đa khoa của "đày tớ" phải tốt hơn bệnh viện đa khoa của "ông chủ" ư?
Ngay cái phòng Đảng ủy và ủy ban Phong Sơn đây, mười hai năm giải phóng rồi, vẫn vỏn vẹn dài có bốn mét. Trên lợp ngói nhưng bốn bề cài phên.
Thường vụ huyện ủy Hương Điền muốn gặp chúng tôi vào chiều mai. Từ ngày bài phê bình Hương Điền ra đời đến nay, huyện có ý trách chúng tôi. Liệu cuộc gặp này sẽ thuận hay nghịch?
Rất nhiều dư luận đến tai tôi. Nào là khi đại biểu xã Phong Sơn lên thăm Tạp chí Sông Hương về, một anh thường vụ huyện ủy mỉa mai: "Lễ phép gớm nhỉ, còn lên đáp lễ Sông Hương nữa kia đấy!" Rồi trong một cuộc họp cán bộ trong huyện, nhắc đến bài đăng trên Sông Hương, ông Bí thư đùng đùng nổi giận đến nỗi một Bí thư xã phải kéo tay ông ngồi xuống: "người ta phê bình ông nóng nảy quá, ông không nhận ra ư" và rồi lại có người nói ông Bí thư bảo "Tôi không tức thằng Hà mà tức thằng chỉ huy nó".
Thực hay hư chưa rõ, nhưng cũng phải thận trọng.
Tô Nhuận Vỹ thay mặt cho Tạp chí phát biểu khá thẳng thắn:
- Có người trong anh em chúng tôi cũng cho rằng nếu viết ông X, bà Y thôi, chứ nói toạc tên tuổi họ ra e Iần sau về huyện họ không tiếp. Còn Tạp chí chúng tôi cho rằng: vuốt ve nhau, nhàm chán rồi, nịnh nhau càng mất tư cách. Mục đích của chúng tôi là vì dân. Đó mới là điều lớn lao. Ý tưởng lớn của chúng tôi là như vậy...
Tôi có ý đợi ý kiến của Bí thư huyện ủy. Phải nói hôm nay ông mới khá thận trọng và dè dặt. Tuy nhiên cũng bộc lộ được những tâm sự.
- Khi bài ấy đăng, một số Bí thư huyện thị có hỏi "Sao thế?" Tôi đáp: "Ờ nó thế chứ sao?" Thật vậy, không có điều gì để nói lại với các anh cả. Tôi xác nhận bài ấy là tốt, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Thực trạng của Phong Sơn là vậy. Tôi cũng có nóng có ngang, anh Vỹ ít gặp, nhưng anh Hà gặp nhiều đã biết, song đó không phải cái bản chất của mình.
Chậm rãi một lát anh nói tiếp:
- Bữa nhân cuộc họp tỉnh ủy có tính chất liên hoàn giữa hai ban chấp hành cũ và mới tôi đưa chuyện Phong Sơn ra nói với anh Nhiệm, anh Thắng Phó bí thư và Bí thư tỉnh ủy "Việc Phong Sơn các anh biết hơn tôi. Vấn đề này đã đề nghị rất lâu. Nếu tôi có khuyết điểm thì các anh cũng có khuyết điểm, Đảng bộ cũng có khuyết điểm. Tôi chỉ là nạn nhân" Riêng với Phong Sơn, cũng phải nói cho sòng phẳng nó cũng ỷ lại lắm kia và bây giờ càng phải đề phòng tính chủ quan của nó nữa.
Giá mọi người, mọi lúc, mọi nơi đều chân tình với nhau như thế này thì quý biết mấy!
Trong diễn văn đọc tại kỳ họp thứ nhất quốc hội khóa tám đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng phải kêu gọi lên "phải chăng khi đã có chính quyền trong tay, không ít người trong chúng ta thường nặng về sử dụng quyền lực, ra lệnh từ trên. Thậm chí có người coi việc phát huy dân chủ gây trở ngại cho việc thực hiện nguyên tắc tập trung hạn chế vai trò của quyền lực".
Đã đến lúc phải hạ bệ hết những "ông quan cách mạng" ấy xuống, trả lại gấp cho mọi người dân quyền tự do, bình đãng ở đời có thế mới tạo nên được sức mạnh tổng hợp của thời đại.
Tô Nhuận Vỹ đề nghị ngắn gọn:
- Không mở lớp ở bản Thái là sai đó anh.
Ông Bí thư nhận lời ngay:
- Sẽ cho mở lớp ở bản Thái.
- Đề nghị huyện quan tâm cái bệnh viện đa khoa.
- Chúng tôi vừa quyết định cho nó bảy trăm nghìn để tu sửa bước đầu rồi.
- Đầu năm huyện cho xã bảy tấn dầu. Họ đã xài vụ Đông xuân hết năm tấn. Số còn lại không thể đủ dùng cho vụ hè thu.
- Chúng tôi sẽ đầu tư tiếp.
- Trường cấp ba ở Sịa và ở cây số 10 quá xa, học sinh cấp ba Phong Sơn bỏ hết. Rồi sau làm sao có trí thức ở vùng này?
- Huyện đã quyết định chuyển trường cấp ba Hương Trà về cây số 17 rồi. Bước đầu thế đã.
Vỹ nháy tôi, tôi cũng tiếp tục đề nghị:
- Trong số 17 máy than cũ, ngân hàng đã giúp thay được 3 máy. Còn 14 máy nữa. Mỗi máy chạy than một năm ăn hết 3000 thùng than, 14 máy, vị chi 42.0 thùng. Cứ mỗi thước gỗ đốt được 6 thùng than. Như vậy là một năm, chỉ riêng 15 máy của Phong Sơn đã ăn hết
7.0 mét khối gỗ. Đó là sự phá rừng tàn bạo. Các anh nên thay máy cho Phong Sơn đi.
Phải phân tích thế mới thấy việc thay thế này là cấp bách. Chúng tôi chấp nhận sẽ có kế hoạch sao cho phù hợp.
Tôi nói tới việc thứ hai:
- Công việc trước mắt của Phong Sơn khá nặng. Song lực lượng cán bộ của Phong Sơn lại rất mỏng. Có thể tính trên đầu ngón tay được. Dĩ nhiên Bùi Xuân Hãn và Phan Ngọc Châu là hai con chim đầu đàn. Song chim cũng phải có bầy mới thành đàn được. Anh nên tính đến đội ngũ kế cận của Phong Sơn đi. Hiện nay, xã có một trăm hai mươi cháu đã tốt nghiệp phổ thông.Trong đó có sáu mươi mốt cháu là con em liệt sĩ. Các cháu đang sống lang thang. Lực lượng này là trí thức của xã chứ anh. Không tính tới, thật là một sự lãng phí rất lớn.
- Chúng tôi sẽ bàn với tổ chức lo việc này.
Tôi đưa ra yêu cầu khẩn cấp cuối cùng:
- Chúng ta đã bàn bạc và nhất trí với nhau rằng vấn đề số một của Phong Sơn là thủy lợi, là nước. Vậy thì đề nghị trạm bơm Dinh, các anh cho tiến hành ngay cho.
- Làm trạm bơm không khó. Chúng tôi lo nhất là điện.
Tôi đáp:
- Giám đốc Ngô Văn Đối là người luôn giương cao khẩu hiệu: ưu tiên điện cho nông nghiệp, mà anh Đối sẽ ủng hộ tuyệt đối, không làm khó dễ gì cho trạm bơm Phong Sơn đâu.
Điều tôi băn khoăn nhất là thế này: Phong Sơn như một đứa trẻ thiếu dinh dưỡng, suy dinh dưỡng đến mức trầm trọng nhất, đang ở trạng thái hạ đường huyết, bệnh ấy, trước hết phải đưa vào phòng hồi sức đã rồi truyền thuốc cấp tập cho nó. Trong khi đó, có lương y rồi đấy, nhưng thuốc thì đang thiếu, cấp nhỏ giọt và chắp vá khó lòng con bệnh mau hồi sức được.
Huyện không phải chỉ lo cho một Phong Sơn. Tôi đã đi khá nhiều ở vùng Hương Điền, hầu hết các vùng có công lao trong kháng chiến, các tên đất đều gợi lên những sự tích một thời, những An - Sơn - Nguyên, những Hòa - Linh - Chương, rồi Ninh - Hòa - Đại, tất cả đều như cùng một số phận Phong Sơn, cũng rất cần huyện quan tâm tới.
Đó là một gánh nặng thật sự, mà Phong Sơn phải biết để cùng đặt trách nhiệm tự lực cho mình thế nào đó để cùng tự cường. Đội ngũ Phong Sơn còn chệch choạc, làm thế nào tập hợp được lao động, để biến sức mình thành sức mạnh của một phong trào. Huyện đầu tư những cán bộ có tầm chiến lược cho
Phong Sơn là điều rất tất yếu, để không ăn xổi ở thì, để mỗi bước đi đều chắc chắn, tin cậy.
Tôi phải ghi ngay vào đây một tin rất vui, Phan Ngọc Châu vừa mang tới, là khi tôi đang viết những dòng cuối này, huyện đã chuyển thêm dầu cho xã, Ngân hàng chuyển tiền cho bệnh viện đa khoa, đoàn cán bộ giáo dục đã về xã lo mở lớp ở bản Thái, tổ chức huyện và xã bàn về đội ngũ kế cận, ngoại thương huyện chuyển về trợ cấp cho xã 17 tấn gạo và bán cho xã tám tấn xi măng, hai tấn thép làm cầu cho Bắc Sơn... Thật là những dòng tin giờ chót ào ạt, đầy hy vọng. Không tin sao được.
Tôi hỏi Châu:
- Lúa vụ trái ra sao?
- Đã xanh mơn mởn rồi - Châu đáp.
- Liệu bọ xít có đe dọa không?
Châu không trả lời. Chính anh cũng đang lo.
Mới hôm qua, tôi hỏi một cán bộ nông nghiệp:
- Đành bó tay trước bọ xít ư?
Anh bác ngay:
- Sao lại bó tay?
- Mất mùa đó thôi?
- Bọ xít khỏe, lại có cánh, xuất hiện bất ngờ. Bơm thuốc chỗ này nó bay đi chỗ khác. Nếu đủ thuốc trừ sâu, đánh đại trà, ào ạt quay lại mà diệt, có chạy đằng trời. Anh thở dài - đằng này có đủ thuốc trừ sâu đâu mà công kích kịp thời.
- Sao? Thế thì thuốc trừ sâu ở đâu? Ban dịch vụ cây trồng huyện, Phòng Nông nghiệp huyện, hay Sở Nông nghiệp tỉnh, hay Bộ Nông nghiệp phải lo toan đây? Ai là người phải chịu trách nhiệm.
Tôi biết Phong Sơn đã quyết tâm đứng dậy đấy. Nhưng đứng dậy được thật không dễ dàng. Thắng cái chủ quan của mình đã khó. Thắng cái khách quan kia, ngẫm ra lại còn khó khăn hơn rất nhiều.
6-1987
N.Q.H.
(SH26/8-87)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...