ANDREW HAAS
Khi virus corona mới xuất hiện, tôi bắt đầu dạy tác phẩm Phaedo của Plato [đối thoại nổi tiếng của ông bàn về sự bất tử của linh hồn - ND].
Ảnh: thephilosophicalsalon.com
Đối thoại - kể lại ngày cuối cùng trong cuộc đời của Socrates, bao gồm cả cái chết của ông ta do uống thuốc độc - cho phép chúng ta đặt ra hai câu hỏi. Đầu tiên, Socrates có ý gì khi nói rằng, đối với chúng ta, triết học là sự chuẩn bị cho cái chết, hay thực hành cho cái chết? Thứ hai, trong thời kỳ đại dịch, khi cái chết vây quanh, chúng ta triết lý như thế nào trong mối quan hệ với người khác?
Câu hỏi đầu tiên cho phép chúng ta thấy rằng triết học không chỉ là một môn học hàn lâm như bất kỳ môn học nào khác. Dẫu có nhiều điều cần biết và nhiều tri thức cần đạt được (về ý niệm, linh hồn, nhận thức luận), nhưng nhiệm vụ của nó không chỉ đơn giản là biết. Đúng hơn, đó là một kiểu sống, một cách tồn tại. Và giống như câu cách ngôn “hãy biết rằng ngươi sẽ phải chết” (memento mori), điều mà đại dịch này tạo ra đó là việc sống chung với chết, hay sống trong khi cái chết đang rình rập, sống như đang-sống-và-đang-chết, ngay bây giờ, trong hiện tại, cùng một lúc. Vì cái chết không chỉ đơn giản là một cái gì đó sẽ đến, giống như một số loại sự kiện trong tương lai; nó ở đây và ngay bây giờ, chúng ta đang làm gì và đã làm gì; nó là những gì liên tục xảy ra.
Nếu triết học chuẩn bị cho chúng ta trước cái chết, thì đó không phải là sự chuẩn bị cho điều sẽ xảy ra, cho sự ra đi của chúng ta, hoặc cho sự ra đi của bạn bè và những người thân yêu, hay những người xa lạ và bị ghẻ lạnh. Ngược lại, triết học chuẩn bị cho chúng ta cái chết bằng cách chỉ cho chúng ta cách sống, bằng cách cho phép chúng ta thực hành việc sống và việc chết. Bởi vì triết học nghiên cứu cách suy tư và cách nói, hành động và tồn tại trong khi đang-sống-và-đang-chết. Thật vậy, đây là đời sống triết học: quan tâm đến việc suy tư và nói, hành động và tồn tại, sao cho chúng ta nhận thức được về cả việc đang sống lẫn đang chết diễn ra như thế nào. Không phải chỉ là chuyện sống tốt hay ốm đau vì chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào, hoặc vì chúng ta sẽ chết trong tương lai, hoặc vì chắc chắn rằng cuối cùng tất cả mọi người đều chết, và cái chết vẫn còn bao trùm cả phía chân trời. Đúng hơn, như một cách sống ngay bây giờ, trong hiện tại, như một cách chết, như một kiểu chết, triết học là sự chuẩn bị để tự hoàn thiện mình, một thực hành tự hiện thực hóa nó ở trong hành động: nó tự mình thực hiện ở trong hành động.
Và công việc của triết học, trước hết và quan trọng nhất, là suy tư và nói về triết học, tức là đưa ra “một chút suy tư theo kiểu Socrates, và còn nhiều hơn thế về sự thật,” trước khi triết học có thể bắt đầu suy tư và nói về bất cứ điều gì khác (như trong nghệ thuật và khoa học). Công việc của triết học là hành động và là triết lý trước khi hành động và tồn tại theo một cách nào đó khác (cho dù là trú ẩn tại chỗ hay tìm kiếm vắc xin, chăm sóc người bệnh hay hoàn toàn không quan tâm gì ráo, thích hành động như những con lừa, con kiến, con ong, con sói hay diều hâu). Đây là cách Socrates trải qua ngày cuối cùng của đời mình: sống khi cái chết đang cận kề, chết khi đang sống, và qua đó, để thực hành triết học. Đây là lý do tại sao ông ta khẳng định rằng điều đó cũng giống như tất cả những thứ còn đọng lại. Vì ông ta đã thực hành cả đời mình để triết lý, đấy là lý do tại sao, khi được hỏi ông ta muốn gì vào ngày cuối cùng của mình, cho điều ước cuối cùng của mình, Socrates nói: “Không có gì mới”, chỉ những điều đã cũ, những gì ông ta đã và đang nghĩ và nói, đang làm và đang tồn tại, như ông ta đang sống và cũng đang chết. Và đây là lý do tại sao, nếu chúng ta muốn “một cái gì đó mới”, bây giờ trong thời kỳ của virus corona mới, đang bị phong tỏa hoặc gỡ bỏ phong tỏa, đó là bởi vì chúng ta đã không thực hành việc chuẩn bị cái chết, bởi vì, cho đến khi chúng ta lo lắng hoặc không quan tâm, chúng ta không sống một đời sống triết học.
Mạch suy tư này cho phép chúng ta đặt ra câu hỏi thứ hai về việc làm thế nào mà những người trong chúng ta đang sống, đang sinh tồn trong khi vẫn đang chết trong trận đại dịch này, có thể thực hành triết học trong mối quan hệ với người khác. Và đây, những lời cuối cùng của Socrates là một manh mối: ông nhắc bạn bè của mình rằng họ mắc nợ Asclepius, vị thần chữa bệnh, vì vậy họ không nên bỏ bê món nợ mà hãy lo trả nó. Bản thân Plato cũng bị ốm và không thể ở bên Socrates vào ngày cuối cùng của ông ấy. Nhưng những lời của Socrates thì cho thấy rằng ông quan tâm đến cuộc sống của Plato cả ngay lúc ông qua đời. Thậm chí còn nhiều hơn: những lời của Plato - vì ông là tác giả của cuộc đối thoại - nói về điều mà Socrates không thể biết được, tức điều mà Plato đã khôi phục lại, và vì vậy món nợ đã đến hạn trả. Nói cách khác, người đã vắng mặt trong suốt bản văn, Plato ốm yếu, lại xuất hiện trong lời cầu xin của Socrates đang hấp hối. Tác giả khẳng định mình như đã có mặt từ trước đến nay, như việc đưa lời nói vào miệng các nhân vật của mình. Như vậy, phần cuối của cuộc đối thoại cho thấy bằng cách nào đó những người vắng mặt cũng hiện diện, hoặc hiện diện như là vắng mặt, và những người ở đây không phải là tất cả những gì ở đó.
Cũng như cái chết không chỉ đơn giản là vắng mặt khỏi cuộc sống - ít nhất là đối với những người làm triết học -, vì vậy, tác giả cũng không chỉ đơn thuần là mất tích khỏi tác phẩm. Plato không chỉ đơn giản đứng ngoài cuộc đối thoại. Những người khác không chỉ khác hơn so với chúng ta. Ngược lại, tác giả ở đó, trong tác phẩm, tất cả đều cùng nhau có mặt ở đó. Plato có mặt trong cuộc đối thoại, có mặt dù vắng mặt, tham gia vào văn bản bằng cách không tham gia, hay nói ra bằng cách im lặng. Những người khác cũng là chúng ta, cũng như chúng ta là họ. Và ngay cả Plato đã chết không chỉ đơn giản là chết. Hay, chính xác hơn, khi đại dịch mang về nhà: người chết không bao giờ vắng mặt và người sống không bao giờ đơn thuần hiện diện. Thay vào đó, người chết và người sống không chỉ ở đây hay ở đó, mà là cả hai.
Điều này rõ ràng là tự mâu thuẫn: người chết như còn sống, và người sống như đang chết, cùng với sự hiện diện của một Plato vắng mặt. Không ai tin vào bóng ma, hay ma là cách người chết sống lại. Không một thực hành triết học nào - ngay cả trong đại dịch virus corona - có thể chuẩn bị cho chúng ta cái chết khi đang sống hay sự hiện diện của người chết trong đời sống của người sống.
May mắn thay, Plato gợi ý một lối thoát. Ngay khi bắt đầu cuộc đối thoại, Phaedo được hỏi liệu anh ta có hiện diện vào ngày Socrates uống thuốc độc trong tù hay không, hay liệu ai đó đã nói với anh ta về điều đó. Anh ấy trả lời: “Chính tôi đã ở đó.” Hay nói đúng hơn là Phaedo chỉ nói: “Bản thân tôi.” Hoàn toàn có thể chấp nhận được khi ngụ ý “Tôi đã ở đó.” Cũng giống như động từ “hiện hữu”, hiện hữu thường chỉ được ngụ ý trong tiếng Hy Lạp và trong nhiều ngôn ngữ khác, chẳng hạn như tiếng Do Thái hoặc tiếng Nga. Nhưng kiểu nói này không chỉ là một cách nói, vì ngụ ý chính xác là, không nói cũng chẳng phải không nói, không nói cũng chẳng phải vẫn im lặng, giống như sự tồn tại cũng không có trong câu trả lời của Phaedo.
Trong chính cấu trúc lời nói của mình, Plato thể hiện ngụ ý là như thế nào: không hiện diện cũng không vắng mặt, mà chỉ đơn thuần được ngụ ý. Người chết là như thế nào, họ là như thế nào: tức được ngụ ý - mặc dù không sống cũng không chết - trong đời sống của người sống. Đây cũng là cách chúng ta được người khác ám chỉ đến. Và ở đây, cuối cùng, triết học cho phép chúng ta thực hành: một hàm ý tư duy, nói ra bằng cách ngụ ý, ám chỉ đến những gì được làm và không được làm, được ngụ ý… Đây chính là lý do tại sao tôi đã dạy Phaedo của Plato trong thời kỳ đại dịch.
Khả Hân dịch
Dịch từ “Philosophy in the Time of the Pandemic” (http://thephilosophicalsalon.com/)
(TCSH391/09-2021)
NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.
PHẠM PHÚ PHONG Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau. Nguyễn Đình Thi
PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)
NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.
HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.
NGUYỄN HUỆ CHI Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.
ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.
THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.
TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)
MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.
HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)
VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.
PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá
CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy. (R. Barthes, Độ không của lối viết)
TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/ dĩ thừa/ hoàng hạc khứThử địa/ không dư/ Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/ bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…
PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.