Lynh Bacardi, tên thật là Phạm Thị Thùy Linh, sinh ngày 03/04/1981. Làm thơ, viết văn, đồng thời là một dịch giả chưa từng học qua trường lớp chính quy nào. Đến với thơ văn từ năm 2003, Lynh Bacardi không ngừng nỗ lực cách tân và đã tạo cho mình một lối viết đầy bản sắc trong thế hệ trẻ luôn có ý hướng cách tân hiện nay. Thế mạnh của Lynh chính là sự vượt thoát trong tư tưởng, dám bội ước với lối thi pháp truyền thống và nói lên được những khát vọng của giới nữ.
LYNH BACARDI
Tìm
hết thảy
sự khởi đầu chiếc nhẫn không trọng lượng
nhấn chìm mọi định nghĩa hình vòng cung
cuối đường tiếng khóc khan
chúng ta hoàn toàn đơn độc
anh đưa em thăm phố cổ bạt hồn
rạc đôi chân ăn mòn con đường vắng
thành phố chuệnh choạng
thời gian đứng trong ngọn lửa thả sông
lời cầu nguyện trôi không hồi đáp
anh lạc buổi tối và em
tiếng thét không âm vọng
hướng dương gục mặt sau trận bão
gã ăn mày cất gương mặt vào đôi nạng gỗ
con lươn úp mặt lòng đường
em cất mình vào đâu?
vòng vân tay biến mất
căn phòng ấm cúng chứa ngọn đèn nhiều màu
em mang đôi mắt lạ loài cá biển
đắp cát lên mặt anh ru ngủ giấc xốn xang
đi anh
cuộc trốn tìm chây lười
giẻ bịt mắt ướt cơn mơ ráo hoảnh
thèm ngón áp út mút khô cánh lưỡi
mùi mồ hôi nồng đôi áo gối mốc
cọt kẹt chiếc giường theo nhịp đẩy anh
đi anh, hết thảy định nghĩa
vòng cung chiếc nhẫn lỏng
nửa sự khởi đầu hồi vọng tiếng khóc khan
đi anh.
Bội thực cấp tính
tôi vẫn uống những con đường ký ức vào buổi tối. sự hoang phế
của quả tim phủ rong rêu khi linh hồn co rúm khóc đòi thể xác.
tiếng lũ thiêu thân thét gào. lửa ăn sâu đôi cánh. bóng tối trốn
chạy nơi nào trong tôi.
đào sâu cơ thể cho sự tìm kiếm.
thất bại. nó lủi xa
tòa bóng tối cá thể đang đổ sập.
bức tường nhuộm đỏ tiếng rú con đàn bà mười tuổi. hôm nay
được biết cái cảm giác chật chội tới đâu. chả sướng. chỉ ngộ.
cương sâu bôi thêm chất nhờn cho trí thức. nhòe nhoẹt đẩy mạnh
trò chơi ý thức cá nhân. tôi uống thuốc ngủ hiệu thượng lưu.
khuyến mãi tràng cười thỏa mãn trước khi ngu muội.
những con đàn bà thơ trẻ được nhuộm đen.
chiếc remote control được điều khiển bởi gan chân hình gạch
chéo. hai chân trụ trên bờ đê rã nát khi dạng háng. cần cái lưỡi
có xương chống đỡ. lũ cẩu đực khoái đái ngồi để che vết bẩm
sinh. cơn lạnh rướm máu dưới da. tắt kè có vô số áo khoác.
hài lòng với kiếp sống con trạch. những bộ trang phục núp sát
bụi lùm. tín hiệu của thế-giới-rình dần hiện rõ. bắn vào những
ổ sọ ươm mầm trái đèn xanh. tóe lửa. rượt bắt. âm thanh lở loét.
nồi cơm được trịnh trọng trộn lẫn thùng phân. thơm mùi cấp số
nhân. chia nhau thể hiện tình dân tộc.
ánh nắng rọi xuyên những hốc mắt rỗng. tôi, con muỗi vằn mệt
lã hút máu đồng loại. tôi có công + nhân thân sáng sủa - bộ óc.
phiếu tính tiền cười sặc sụa trên bàn tiệc. xoàng. sao bằng một
tấm phiếu bầu. tôi vô hình kiêm vô chủ. mùi tanh nuốt sống ánh
sáng. bọn chúng gào thét. tôi lạc giọng. cà-vạt nhúng bia thay
bò. di động ướp nước dãi. lũ sâu nhớp nháp bò ra từ máng cám.
dây cót căng bứt tung phạm vi cấm. mặt trời đeo răng giả nhát chú
cuội. hố mộ tị hiềm được phát hiện sinh trưởng nhiều thế kỷ.
tối hôm qua tôi chết vì bội thực.
Một mạng tàn đời trên dấu hỏi
những nóc nhà không dấu hỏi
dấu hỏi không mọc trên những nóc nhà
đêm qua
tôi vô tình thấy một mạng móc cổ trên dấu hỏi
trong mắt
lồi một dấu hỏi cong queo
khi con quạ lông màu máu xuất hiện
rỉa từng khúc dấu hỏi
mang về mớm cho đàn con
những con quạ nhỏ vừa ăn vừa rỉ máu
bốc mùi dấu hỏi
khi tôi đi qua dòng kênh
bà S lận một mớ dấu hỏi trong lưng quần
ném vào mặt thằng cha đứng đái lên dòng nước
mặt nước thích chí
quay tròn thành dấu hỏi thum thủm
chảy vào miệng
khi cơn mưa ngồi phịch xuống nóc nhà
con đường đất đỏ in những bước chân tháo chạy
của dấu hỏi
bây giờ
dấu hỏi đã ùa vào nhà tôi
chen chúc
móc vào hai môi
khiến mũi tôi chảy lòng thòng dấu hỏi
nên
xin đừng gửi dấu hỏi cho tôi vào một ngày u ám
bởi
tôi đang nổi khùng vì không lời giải đáp
cho một mạng móc cổ trên dấu hỏi, hổm rồi.
(SH289/03-13)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi