Trang thơ Joseph Brodsky

10:18 18/04/2014

JOSEPH BRODSKY

LTS: Sinh năm 1940 tại Peterbuorg. Năm 1970, ông sang định cư ở Mỹ và dạy học tại Đại học Columbia. Ông làm thơ bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Năm 1987 ông đoạt giải Nobel văn chương.
Những bài thơ Sông Hương chọn giới thiệu được trích trong tập “Tĩnh vật và những bài thơ khác” từ bản dịch của Hoàng Ngọc Biên.

Nhà thơ Joseph Brodsky - Ảnh: internet

Định nghĩa thơ

Tưởng nhớ Fédérico Garcia Lorca.
Huyền thoại kể lại rằng trước khi bị xử bắn ông nhìn thấy
mặt trời đang lên phía trên đầu những người lính
và bấy giờ ông nói:
- Thế tuy nhiên mặt trời vẫn mọc...
Đó có lẽ là khởi đầu của một bài thơ mới


Nhìn lại một lúc cảnh vật
            sau những cánh cửa sổ nơi cúi nhìn xuống
            những người vợ chúng ta,
            những đồng loại chúng ta,
            những nhà thơ.
Nhìn lại cảnh vật
            sau những phần mộ bạn bè chúng ta
            và tuyết chầm chậm bay
            khi tình yêu thách thức chúng ta.
Nhìn lại
            những thác mưa hỗn loạn bò tràn
            trên những cửa kính và làm rối loạn mọi nhịp,
            chữ nghĩa áp đặt nhiệm vụ cho chúng ta.
Nhìn lại
            trên mặt đất thiếu ân cần
            cây thập giá vươn dài những cánh tay cuối cùng
            căng cứng.
Một đêm trăng
            nhìn lại cái bóng dài
            in dáng cây cối và con người.
Một đêm trăng
            nhìn lại những con sóng nặng trên sông
            lấp lánh như những chiếc quần
            đã cũ.
            Thế rồi bình minh tới
Nhìn một lần nữa con đường trăng
            chỗ hiện ra trung đội hành quyết,
Nhìn lại sau cùng
            mặt trời lên giữa những cái gáy xa lạ
            của những người lính.




Những người hành hương

Trước sân vận động và đền miếu,
trước nhà thờ và quán rượu,
trước những nghĩa địa tao nhã
trước những dãy chợ lớn,
trước sự bất hạnh và sự thanh thản,
trước Rome và trước La Mecque,
cháy bỏng dưới nắng xanh mặt trời,
họ đi khắp cùng thế giới
những người hành hương.


Họ là những người què cụt, lưng gù,
là những người đói khát, rách rưới,
trong đôi mắt hoàng hôn say ngủ,
trong trái tim lạc lõng buổi bình minh.
Phía sau họ những sa mạc ca hát,
và những ánh chớp lóe sáng,
trên đường đi của họ những ngôi sao run rẩy
và chim chóc thét vào tai họ
rằng thế giới sẽ không thay đổi.
Không. Nó sẽ không thay đổi.
Tuyết sáng rỡ
dịu dàng mà vô định,
thế giới sẽ không ngừng nói dối,
bất động trong vĩnh cửu của mình
dễ hiểu có lẽ
nhưng tuyệt đối vô hạn.


Vậy thì tại sao tin ở mình?
Tại sao tin ở Thượng đế?
Với con người đó chỉ là sự phỉnh phờ
Chúng ta chỉ còn mỗi
phiêu lưu và ảo tưởng.
Và những hoàng hôn nổi lên mặt đất,
và những bình minh đăng quang mặt đất.
Mặt đất được tưới bằng máu của người lính,
kích động bởi tiếng thét của nhà thơ.


(SH302/04-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis

  • Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.

  • Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch

  • Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp

  • Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.

  • XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)

  • Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).

  • Ludmila TatianitchevaTuổi tôi

  • OCTAVIO PAZ        Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt

  • LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.

  • LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)

  • WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)

  • FRED MARCHANT (Mỹ)                 Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.

  • Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.

  • PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP

  • LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.

  • Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.

  • RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865  Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào  chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.

  • ALLEN GINSBERG(Tôn vinh Kenneth Koch) (1)LGT: Allen Ginsberg (1926 - 1997): là một nhà thơ hậu hiện đại Mỹ nổi tiếng trong trào lưu Beat cùng với Jack Kerowack và Williams S. Burroughs. Tốt nghiệp đại học năm 1948, làm đủ thứ nghề: thủy thủ, thợ nhà in, rửa bát, điểm sách, nhân viên tiếp thị.