LTS: Huyền Thư quê quán Đông Hưng, Thái Bình, hiện đang sinh sống tại Wellington, New Zealand; thơ chị được giới thiệu trên Sông Hương số 325 (3/2016).
Bài thơ Nhớ rất nhiều là nhớ được bao nhiêu? được Huyền Thư viết bằng tiếng Việt và tự chuyển ngữ sang tiếng Anh. Bản dịch tiếng Anh tham dự Cuộc thi thơ trẻ New Zealand 2016 (National Schools Poetry Competition). Đây là cuộc thi thơ dành cho những cây bút trẻ tại New Zealand được tổ chức thường niên bởi Trung tâm Viết văn (International Institute of Modern Letters) của Trường đại học Victoria, thủ đô Wellington (Victoria University of Wellington) từ năm 2003.
Bài thơ của Huyền Thư được trao giải thưởng một trong 10 bài thơ xuất sắc nhất cuộc thi. Giải thưởng cuộc thi vừa được công bố vào ngày 26/08/2016 - Ngày thơ New Zealand.
Giám khảo cuộc thi năm nay là nhà thơ, nhà biên kịch nổi tiếng Anne Kennedy - giảng viên Khoa Sáng tác tại Viện công nghệ Manukau (Manukau Institute of Technology), đã nhận xét về bài thơ của Huyền Thư như sau: “Trong bài thơ Nhớ rất nhiều là nhớ được bao nhiêu? Huyền Thư có nhắc đến thảm họa lũ lụt có sức tàn phá lớn tới một vùng làng quê.
“Nhớ rất nhiều là nhớ được bao nhiêu?
Có biết những buổi xót lòng đôi mùa lũ sông
ngập đồng, lúa chết
Khói rạ chiều quê hun hao gầy mắt biếc
Có cậu bé nhà bên bắt bầy cá diếc
Bỏ tận đáy chum như sợ tuổi thơ đi mất
cuối ngày…”
Bài thơ của Huyền Thư là minh chứng sinh động góp phần quan trọng trong việc thể hiện rằng nghệ thuật có thể giúp con người vực dậy từ những khổ đau: bằng cách trực tiếp so sánh thảm họa với vẻ đẹp - vẻ đẹp của ngôn từ, nhịp điệu và hình ảnh”.
Chúc mừng Huyền Thư và xin giới thiệu đến bạn đọc bài thơ này.
HUYỀN THƯ
How much is too much for remembering?
How much is too much for remembering?
You know the grief when the river flow wiped off the rice paddies
– all dead
The afternoon smoke flew away as they burned the rice stubble
afterwards
There, the neighbour boy caught the fishes
shut them in a jar so his childhood couldn’t go too far
At the end of the day
Come back again to see the cobblestone path on a rainy day
follow the flute sound and run up the hill to the village
meet the old woman with a natural smile, no teeth,
seemed like she was waiting for her son to come back home from
town
There’s too much to remember about the old days
The flower scent in the air,
cicadas rumbling on the trees,
the trees Grandpa planted that year
now laying buds in people’s hearts
Where was the innocence?
We are old enough to feel the loss
Stand in front of our shadows and command:
‘Don’t cry!
Numerous footprints will carry the promise.’
Begin to learn the mother tongue one more time
for more than a love of family, the old village, soil and sand
we feel the sense of belonging
In the memory of a beautiful dawn
there were heel marks on mouldy bricks
Open the door,
light the cigarette
ponder again: how much is too much for remembering?
Nhớ rất nhiều là nhớ được bao nhiêu?
Nhớ rất nhiều là nhớ được bao nhiêu?
Có biết những buổi xót lòng đôi mùa lũ sông
ngập đồng, lúa chết
Khói rạ chiều quê hun hao gầy mắt biếc
Có cậu bé nhà bên bắt bầy cá diếc
Bỏ tận đáy chum như sợ tuổi thơ đi mất
cuối ngày
Về lại con đường đá sỏi mùa mưa bay
Theo tiếng sáo diều ra quá triền đê phía ngoài đầu xóm
Gặp bà cụ khuyết răng cười nguyên miệng móm
Đứng dựa gốc tre chờ mãi thằng con từ phố sắp về nhà
Nhớ rất nhiều là nhớ những ngày qua
Thiên lý nồng hương,
chiều hạ buồn mắt bão
Lũ ve sầu được mùa sục sạo
Mừng khóm hòe gần độ biết đơm bông
Hàng cây năm ấy ông trồng
Đẻ những tán xòe, tán xanh trong lòng người ở lại
Có còn đâu thơ dại?
Đủ cho nỗi đau mùa cũ tự mọc mầm
Đứng trước bóng mình để dặn nỗi trầm ngâm:
“Đừng khóc!
Vì còn dấu chân cõng muôn vàn lời hứa.”
Học tiếng vỡ lòng từ quê hương lần nữa
Để biết yêu hơn một làng xưa, nắm đất, gia đình
Rồi nơi đâu đó thuộc về hình hài cũ
Người đã biết mình là trọn một sinh linh
Trong nỗi nhớ có hạt nắng bình minh
Có dấu gót giày về trên nền gạch mốc
Trong tiếng mở cửa về cọ diêm đốt thuốc
Là trăn trở nốt xem: nhớ đến bao nhiêu là nỗi nhớ đã nhiều?
(TCSH332/10-2016)
LTS: ...Với gần 30 công trình nghiên cứu, lý luận - phê bình văn chương có giá trị khoa học, GS. Hà Minh Đức đã trải qua một đời lao lực và giảng dạy để sống, yêu, say và viết... Và không chỉ có thế, GS.Hà Minh Đức còn là tác giả của 3 tập bút ký và 4 tập thơ giàu sự sống thật, giàu phẩm chất nhân văn và thi sĩ.Thơ Hà Minh Đức nồng ấm tình đời, tình người; nhưng với tình yêu, ẩn chứa bên trong buồn thương và đơn độc. Nỗi sầu xứ và những hoài niệm ngày xanh qua từng “giọt nghĩ trong đêm” của tác giả đã làm nên những dư âm buồn xa và những thao thức thơ chăng mắc lòng người.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu chùm thơ mới của tác giả.
Ngọc Tuyết - Ngô Thiên Thu - Tuệ Nguyên - Phạm Trường Thi - Lưu Xông Pha
Lâm Thị Mỹ Dạ - Lê Khánh Mai - Thu Nguyệt - Phan Thị Thanh Nhàn - Song Hảo - Nguyễn Thị Hồng - Trần Thị Trường - Phạm Thị Anh Nga - Thuý Nga - Châu Thu Hà - Phan Dịu Hiền - Dương Bích Hà - Lê Hoàng Anh - Ninh Giang Thu Cúc - Lê Minh Nguyệt - Nguyễn Đăng Chế
Sinh tại Ngọc Hà, Ba Đình, Hà NộiHội viên Hội Nhà văn Hà NộiCác tập thơ đã in: + Gửi con lời ru + Em đi ngang chiều gió + Cỏ mặt trờiCác giải thưởng: + Giải nhất cuộc thi thơ Trung tâm Văn hoá Q 3, TP.HCM + Giải ba cuộc thi thơ lục bát Tuần báo Văn nghệ
Trần Hoàng Phố - Vũ Thị Khương - Trần Hữu Lục - Lê Tấn Quỳnh - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Công Bình - Ngô Cang - Văn Lợi - Hà Huy Hoàng - Nguyễn Ngọc Hạnh
Thần Đinh uy nghiêm kiêu dũngThanh tao tạc dáng bên trờiĐế vương ngầm ghen thế núiVung roi phạt BÁT NGHĨA SƠN...
Họ và tên đầy đủ: Nguyễn Công Nam - Sinh 1953Bút danh: Công NamQuê: Hùng Tiến - Nam Đàn - Nghệ AnLà hội viên HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HẢI PHÒNGTác phẩm đã xuất bản: - TIẾNG VỌNG ĐÊM MƯA -Thơ (NXB Hải Phòng). - Giải thưởng cuộc thi thơ 2001 - 2003 của TCSH.
Trên bầu trời, một vì sao đỏ chóiRót ánh sáng vào tháng ngày hấp hốiMáu sao rơiGiọt lịm lưng thềmCây nến tim tôi bùng cháy...
Nguyễn Sĩ Cứ - Võ Thị Hồng Tơ - Hoàng Cầm - Đào Duy Anh - Hoàng Ly Thạch Thảo - Võ Văn Luyến - Phạm Duy Tân
Tên khai sinh: Vương Oanh NhiSinh năm 1947 tại Hải Phòng.Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam .Học viên khoá IV Trường viết văn Nguyễn DuTác phẩm chính: + Lối nhỏ (1988) + Bài mẫu giáo sáng thế(1993)
CHÂU NHONăm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với địch, 3 đồng chí hy sinh và trung đội trưởng bị thương nặng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đêm đó trung đội trưởng đã “nói chuyện với người yêu” trong cơn mê sảng. Xúc động trước tình cảm đó, tôi đã chuyển lời của người liệt sĩ thành bài thơ gửi về cho người yêu của anh ở hậu phương là cô Lê Thị Ánh, giáo viên cấp I ở một bản thuộc huyện Quế Phong, Nghệ An.
Hà Duyên - Nguyễn Thụy Kha - Nguyễn Thanh Văn - Nguyễn Văn Quang - Phạm Xuân Dũng - Lê Tuấn Lộc - Hồng Thị Vinh
Phạm Tấn Hầu - Lê Ngã Lễ - Lương Ngọc An - Lê Bá Thự - Phạm Thị Anh Nga - Đoàn Mạnh Phương - Trịnh Văn - Nhất Lâm - Hoàng Lê Ân.
NGUYỄN VĂN DINHCâu thơ BácThuở chăn đơn Bác đắp trong hangỐc suối, cơm ngô, nõn chuối ngànThơ Người vẫn viết cho ta đọc"Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Nguyễn Trọng Tạo - Diệp Minh Luyện - Nguyễn Việt Tư - Lê Viết Xuân - Trần Lan Vinh - Mai Văn Phấn
Trương Đăng Dung - Văn Công Hùng - Nguyễn Thụy Kha - Văn Công Toàn - Vĩnh Nguyên - Phan Tường Hy
Vũ Thị Huyền - Công Nam - Nguyễn Cảnh Tuấn - Đặng Hiển - Trần Đôn - Nguyễn Văn Hùng - Nguyễn Thị Thái
LTS: Binh đoàn Hương Giang thành lập ngày 17.4.1974, mang tên dòng sông thơ mộng. Sau khi giải phóng Huế, Binh đoàn tham gia chiến dịch thống nhất Tổ quốc, tiến thẳng vào Dinh Độc Lập ngày 30.4.1975. Sống lại những ngày tháng oai hùng đó, Nguyễn Trọng Bính, một sỹ quan của Binh đoàn đã viết trường ca “Nhật ký dòng sông” năm 2008. Tác phẩm này vừa được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam xếp loại xuất sắc trong đợt sơ kết Cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca về đề tài Chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân 2006 - 2008. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu cùng bạn đọc một trong số 11 chương của trường ca này.
CAO XUÂN THÁISinh năm: 1948 - Tại Vương quốc Thái LanVề nước năm 1960Quê quán: Hoa Lư - Ninh BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt NamPhó Chủ tịch Hội VHNT Hà Giang - Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
Nguyễn Đông Nhật - Chử Văn Long - Lê Hoàng Anh - Trịnh Lữ - Đào Trung Việt - Nguyễn Trần Thái - Nguyễn Thị Anh Đào - Nguyễn Loan - Nguyễn Văn Quang