LTS: Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tăng Việt. Sinh ngày 20 tháng 2 năm 1922 tại làng Phúc Tằng, huyện Việt Yên (do đó mới có tên là Tăng Việt), Hà Bắc. Con một nhà nho không thành đạt, sống bằng nghề thầy thuốc. Hoàng Cầm (tên một vị thuốc rất đắng) là bút danh dùng từ năm 1939.
Có thơ đăng đầu tiên vào năm 14 tuổi, trên báo Bắc Hà. Trước Cách mạng Tháng 8, có những kịch thơ đáng chú ý như Kiều Loan, Lên Đường.
Tham gia cách mạng từ tháng 5 năm 1945, làm Bí thư Đoàn Thanh niên cứu quốc xã Song Hồ. Vào bộ đội năm 1947 và có những bài thơ rất được ưa thích như Bên kia Sông Đuống, Đêm liên hoan, Giữ lấy tuổi trẻ.
Là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam ngay từ ngày đầu thành lập và là ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa I cho đến năm 1958.
Sông Hương xin trân trọng giới thiệu mẩu đối thoại ngắn giữa nhà thơ với phóng viên Tạp chí trong lần gặp ở Hà Nội vừa rồi, và 3 bài trong tập thơ Kinh Bắc của ông, tập thơ được tác giả xem là tiếng nói tâm linh của thơ và là những bài thơ tác giả không thể quên được.
S.H
P.V: Xin anh cho biết qua về công việc sáng tác của anh?
H.C: Từ năm 1959 đến nay tôi vẫn sáng tác đều đặn; tập trường ca Men Đá Vàng, tập thơ Kinh Bắc (khoảng 50 bài) và một số ít bài thơ lẻ. Sau năm 1980 vì những lý do riêng tư, tôi hoàn toàn ngừng viết. Nay đang bắt đầu "thử ngòi bút" lại.
P.V: Có lẽ trong việc "thử lại ngòi bút" ấy, anh được công cuộc đổi mới đang diễn ra tiếp sức cho rất nhiều, nếu không nói là một cách quyết định?
H.C: Từ ngày đồng chí Nguyễn Văn Linh gặp các anh em văn nghệ sĩ, tôi thấy mở ra rất nhiều. Tôi ao ước và tôi tin vào công cuộc đổi mới. Với tôi, chuyện đã qua là đã qua, nói lại chuyện quá khứ, theo tôi, không ích gì. Tôi không trách ai hết. Điều quan trọng nhất, đáng lo lắng nhất là từ nay có làm được gì không, có góp sức cùng với mọi người được không để làm cái gì đó có ích cho đất nước. Sự trăn trở là nên dành cho hiện tại, vì hiện tại và xuất phát từ hiện tại. Tôi nghĩ các anh Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán… vẫn còn có thể sáng tác nhiều. Tôi biết các anh ấy tiềm lực chưa cạn đâu.
P.V: Còn anh hẳn cũng đang ấp ủ viết một cái gì đấy chứ ạ?
H.C: Tôi dự định chuyển trường ca Men Đá Vàng thành kịch thơ. Đấy là một vở ca ngợi những gì tốt đẹp của ông cha để lại (Kịch thơ là thể loại tôi có phần sở trường, còn kịch xuôi tôi viết kém lắm). Ngoài ra tôi đang mong muốn viết một kịch thơ lấy đề tài chống chiến tranh. Về những bài thơ lẻ, tất nhiên không thể định trước được; thấy thôi thúc thì làm thôi.
P.V: Tình hình văn nghệ hiện nay theo anh như thế nào?
H.C: Vẫn đang còn ngổn ngang cái mới cái cũ. Tôi mong mỏi những anh em đang còn vướng trong nếp tư duy cũ sớm suy nghĩ lại, để nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc đổi mới. Mới như Maiakovski: "Tranh nhau vinh dự làm gì!".
HOÀNG CẦM
Lá Diêu Bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá Diêu Bông
Mùa đông sau em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười se chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xoè tay phủ mặt chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời...
...ới Diêu Bông...!
Theo đuổi
Em ơi thử đếm mấy giêng hai
Đêm hội Lim về
đê quai rảo bước
Đuổi tà lụa nhạt
Ánh trăng đầm thấm đường sương
Ấy bởi thương em
vườn khô bỏ ngỏ
Gió vào ra bưởi trụi hồng thui
Ấy bởi thương em
mái nhà um cỏ
Chim vào ra vách đứng cột ngồi
Em về đồng chiêm đất rạn chân chim
Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè
Hồ nghe đêm hội ới a
Lại xót mắt em mi trường khép bóng
Lòng tay êm mát rừng tơ xa
Lại xót tay anh đêm trường ru võng
Rừng chân mây chưa động sấm quê nhà
Chân em dài đi không biết mỏi
Má em hồng lại nổi
đồng mùa nước lụt mênh mông
Lưng thon thon cắm sào em đợi
Đào giếng sâu rồi
Đừng lấp vội đầu xanh
Lý lý ơi khát khô cả giọng
Tình tình ơi chớ động mành thưa
Chìa vôi quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo tắm bao giờ…
…hở em.
Về với ta
Ta con bê lạc dáng chiều xanh
đi mãi tìm sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
gặm cỏ mưa phùn
Dóng giã gọi về đồng sương
Đôi ba người lận đận
Đêm nay mẹ chẳng về chuồng
Ta con chào mào khát nước
về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm
Cây ổi giơ xương
chống đỡ mùa đông sập về đánh úp
Ô này tám đỏ ra hoa
Ta con chim cu về gù rặng tre
đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm
Ta ru em
lớn lên em đừng tìm mẹ phía cơn mưa
Ta con phù du ao trời chật chội
đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
Vừa rụng chiều nay
dềnh mặt nước hương sen
Ta soi
chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi đôi cá đòng đong.
1960
(SH32/08-88)
LTS: Trại sáng tác Văn học Nghệ thuật của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam tại Cố đô thơ mộng đã bế mạc cách nay hơn 1 tháng. Trong ký ức của Huế bây giờ là một khoảng trống mênh mang tình mà “loài - thi - sĩ” đã giăng mắc như những dấu lặng không thể mờ phai trên hình hài từng nẻo phố… Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ rút từ hơn 100 tác phẩm ở Trại viết Cố Đô.
Có thể ngày mai cỏ sẽ mọc đều hơnDưới bước chân mình anh sẽ nghe nhịp đời tan chảyEm định cư trong những ký ức thời gian nhập nhòe mùa phượng đỏMột góc Huế bình yên Thiên Mụ nắng chan vàng
Người gieo mùa thu trong thành phố bỏ đi rồibỏ hoang công viênbỏ hoang những con đường thông thốcbỗng thấy lạ những mặt người, lạ trời, lạ đấtcòn mỗi ngọn heo may bạn cũ dẫn đường
...Trăng non hé cửaCuội lẻn thăm nhàMây ôm chăn cưới, ru giấc CuộiVà...
Có những mùa hè không nắngvà mùa thu không trăngthời gian đi trên những lối mòn không thể thấy.
Thời mặt đất thiếu mênh môngCá nhân lang bạt chân trầnChạy tích cực trong mọi hình thức
Ta đã sống, và ta còn sốngCháy hết mình vì phẩm giá kiếp ngườiTa đã trải vô vàn cay đắngNên bây giờ đời càng đẹp gấp đôi
...Sao nhiều việc vẫn còn im lặng đáSức ỳ nào?Sao nhiều việc không bén nhanh như cứu hoả...
Tặng Hoàng HưngCó thật ông đấy không?Vừa đi vừa đếm bướcNhững bước trầm trên trảng cátMột bước lên, lại một bước lùi về
...Âm dương day trở cuộc sinh thànhMùa tinh tú phong phanh...
Nước cuộn xoáy chỗ sông tìm gặp biểnHãy còn nghe hương cỏ THẠCH XƯƠNG BỒ Nơi cuối sông nhớ về nguồn khắc khoảiSông hiền hòa nên được gọi sông THƠ...
Những đàn bà không chồngNhư những chiếc mâm cổLặng lẽ đầy rêu phong
Kêu sớm, kêu chiều, kêu cả hoàng hônKêu bồ đề xanh (*), kêu tượng đài trắngKêu buốt lá kim trên cây mọc thẳngTiếng kêu nhức nhức Trường Sơn.
...dòng sông quê mang chuyện tình trôi mãisông ơi...
Lê Vĩnh Tài sinh tại thành phố Buôn Mê Thuột, hội viên Hội văn nghệ Đắc Lắc. Năm 1996 anh có mặt trong tập thơ “6 ô cửa sổ” cùng với 5 tác giá trẻ Đắc Lắc; Và là đại biểu chính thức dự Hội nghị những người viết trẻ toàn quốc lần thứ V (1998).Thơ Lê Vĩnh Tài đẹp và buồn, bảng lảng như một tiếng gõ cửa mơ hồ, để lại những ngấn sóng xao xuyến trong lòng bạn đọc.
Con đẻ của Khánh Hoà nhưng là con dâu của Huế. Lê Khánh Mai tốt nghiệp Thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn, hiện là Tổng biên tập tạp chí Nha Trang. Ngoài 4 tập thơ và 1 tiểu thuyết đã xuất bản, Lê Khánh Mai còn có nhiều thơ in trong các tuyển tập khác.Thơ Lê Khánh Mai lành mà gợi, róc rách giữa hai dòng truyền thống và hiện đại, dùng dằng giữa hai nẻo hiện thực với mộng mơ...
Sinh 1954 tại Nghi Lộc, Nghệ An. Hiện là công nhân ngành in ở Huế. Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế. Tác phẩm đã xuất bản:- Lá thời gian- Tinh khôi- Chàng ca sĩ bình minh
Sinh ngày 29 - 05 - 1978 tại HuếNguyên quán: Đồng Hới - Quảng BìnhĐại biểu Hội nghị những người viết văn trẻ Việt Nam 2 lần V và VIHiện đang công tác tại Khoa Ngữ văn - ĐHSP HuếTác phẩm: Thơ “Khi em mười chín”- NXB Thuận Hoá 1998.
Tưởng chừng như dòng sông trôi chật hương bòng, hương bưởitưởng chừng như con đường quen, quen tựbao giờhình như tôi đã có lần tiền kiếpđêm thiên hà vỡ một ánh sao rơi
Có gì mà nhớ quêGặp sông nhìn đăm đắmThương bên lở bên bồiLo quê mùa nước lớn