Trần Bảo Định - một tác giả đặc sắc trong dòng “văn học sinh thái”

14:05 01/12/2017

NGUYỄN KHẮC PHÊ

(Đọc Chim phương Nam, tạp bút của Trần Bảo Định, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM, 2017).

Ảnh: internet

Không tính 6 tập thơ “thù tạc” bảy tỏ ân nghĩa với quê hương, bạn bè, người thân, Trần Bảo Định (TBĐ) - “nhà văn - không thẻ” mới nhập cuộc làng văn với tập truyện Kiếp Ba Khía năm 2014, nên tôi gọi ông là “nhà văn trẻ”, mặc dù TBĐ sinh năm 1944, tức là đã ở tuổi “xưa nay hiếm”. Điều đáng kể hơn là chỉ mấy năm qua, TBĐ ra sách liên tục, đều do Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM làm “bà đỡ”. Sau Kiếp Ba Khía (2014), tiếp Đời Bọ Hung (2015) và năm 2017 in liền 2 tập: Phận lìm kìm ra tháng 3, còn Chim phương Nam đang thơm mùi mực… Cuối năm nay, TBĐ còn có Ông già Nam Bộ nhiều chuyện (hai tập - Nxb. Hội Nhà văn).

Nói cho đúng thì cả 4 tập văn xuôi của TBĐ đều đậm đà… mùi “đất phương Nam”. Bạn văn Bích Ngân khi đảm trách Tổng Biên tập Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM - đã nhận xét về văn xuôi TBĐ:

“…Tác giả sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ Nam Bộ một cách dân dã, hài hước, thú vị qua những sự đời, sự người, sự vật… với tính cách riêng, bằng vốn sống tích lũy và sự am hiểu sâu rộng của mình…”.

Còn tôi, qua tập truyện thứ 4 này của TBĐ, càng khẳng định ông xứng danh là “người kể chuyện dân gian hiện đại”. Chúng ta đều biết, nhiều truyện dân gian mượn con vật để nhắc nhở con người. TBĐ thì cả 4 tập truyện đều lấy nhan đề bằng tên con vật; tuy vậy, 3 tập trước, trong nhiều truyện, con vật chỉ là kẻ làm chứng, là “nhân vật” phụ để tác giả gửi gắm ý tưởng của mình; còn Chim phương Nam (CPN), tất cả 27 truyện, “nhân vật” chính đều là… chim! Cuốn sách ghi là “Tạp bút”, nhưng đúng như anh Hàn Tấn Quang (Chủ biên Tạp chí Kiến thức ngày nay) đã viết trong “Thay lời tựa” là những trang viết của TBĐ “không phải truyện mà thành truyện.” Hầu hết, đều đã đăng trên Kiến thức ngày nay; riêng truyện “Bìm bịp tiếng kêu thương”, TBĐ dành riêng cho Sông Hương Số đặc biệt tháng 6/2016. Hàn Tấn Quang hỏi “Vì sao”, TBĐ tủm tỉm cười: “Uống nước nhớ nguồn! Nếu Nguyễn Hoàng không vào đất Thuận Hóa (Đàng Trong) thì chắc gì có người Việt lưu dân vô phương Nam khẩn hoang lập ấp. Và rồi, chim Việt lạc xứ biết cành Nam ở phương nào mà tầm về xây tổ”!

Vậy mà nay, phương Nam với “mũi thuyền ta đó Mũi Cà Mâu” (thơ Xuân Diệu) vẫn đó, nhưng biết bao loài chim không còn nơi xây tổ và đang bên bờ vực tuyệt chủng!

Cả 4 tập truyện, và đặc biệt với CPN, nhà văn TBĐ có lẽ là cây bút lập kỷ lục viết về loài vật trong làng văn Việt Nam. Cũng như nhiều nhà văn khác (như Nguyễn Quang Sáng với “Con mèo Fujita”, Kim Lân với “Con chó xấu xí”, Nguyễn Công Hoan với “Con ngựa già”, Nguyễn Văn Bổng với “Con trâu”…), TBĐ cũng “mượn loài vật” để gửi gắm những triết lý về nhân sinh, thời cuộc, nhưng bằng sự tập trung toàn truyện các loài chim trong CPN và nhiều truyện về nhiều loài vật khác trong 3 cuốn sách trước, TBĐ đã liên tục phát tín hiệu S.O.S. kêu cứu cho môi trường sinh thái đang bị con người hủy hoại với một tốc độ khủng khiếp, đến mức mà nhà văn từng đoạt giải Nobel Mạc Ngôn đã phải kêu lên: “Văn học của chúng ta kỳ thực gánh vác trách nhiệm to lớn, chính là trách nhiệm cứu lấy trái đất, cứu lấy nhân loại…” “Những ngày tháng tốt đẹp của nhân loại đã không còn nhiều nữa!” (Dẫn theo sách “Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương” của Nguyễn Thị Tịnh Thy). Như thế, có thể nói, TBĐ là một cây bút có đóng góp rất đặc sắc trong dòng “văn học sinh thái” đang ngày càng được chú ý; và do đó, các tác phẩm của ông, ngoài nét riêng là thể hiện cuộc sống vùng đất Nam Bộ một cách “dân dã, hài hước” bằng vốn tích lũy suốt cả cuộc đời sống giữa lòng dân vùng đất châu thổ đồng bằng sông Cửu Long, đã vươn tới một chiều kích rộng lớn hơn và rất thời sự nữa.

Nhiều truyện trong CPN có cái kết làm chúng ta đau lòng, khi những con chim là bạn thân thiết của con người bị đưa lên bàn nhậu. Như con le le trở thành bạn của Đực Nụi, khi anh về cất chòi tại ngã ba Vàm Dưng, thậm chí nó làm nhiệm vụ cảnh giới, báo trước khi sắp có lính đi ruồng bố thì bầy le le rối đội hình bay về hướng chòi của anh; nhưng rồi con người “nhằm thỏa mãn ham muốn dục vọng… ngày nào le le cũng bị bắt bằng bẫy lưới do bọn “le le mồi”…”. Và khi nghe hung tin cả bầy le le bị hốt trọn lên xuồng, mặc dù le le trống tinh khôn dùng kế “điệu hổ ly sơn” lao mình trước mũi xuồng hòng cứu vợ con, “Đực Nụi ngồi uống hơn lít rượu một mình say bí tử” rồi thốt kêu lên: “Ác lai ác báo!” (Truyện “Le le, nỗi đau của mẹ”).

Trong truyện “Bìm bịp tiếng kêu thương”, chúng ta gặp những trang văn rưng rưng kỷ niệm tuổi thơ của chính tác giả nơi quê ngoại: “Đầu hạ, bìm bịp đẻ. Đầu thu, cả vợ lẫn chồng cùng gánh vác việc nuôi con, nó chẳng ly thân ly dị bao giờ. Mái nhường miếng mồi ngon cho chồng cho con… Tôi đã rình coi bữa ăn chiều sum họp của “gia đình bìm bịp” ở đám biền thí thời bom đạn…”; nhưng rồi “chỉ một lời đồn thổi bá vơ, người săn đuổi và tận tuyệt nòi bìm bịp, ngâm rượu tráng dương bổ thận…” nên khi tác giả “trở về khu vườn nhà ngoại sau bao năm đi xa… chỉ nghe tiếng lá rơi trên thềm nhà cũ. Cầu ao, bến nước, bãi biển… còn nằm trơ đó, bìm bịp thì tuyệt chủng rồi!”

Có lẽ không phải ngẫu nhiên TBĐ lấy tên người vợ hiền Lê Kim Phượng ghi dưới loạt truyện CPN khi đăng trên “Kiến thức ngày nay”. Thực ra, cả tập truyện là tiếng kêu của Đất Mẹ nhẫn nhục và bao dung như TBĐ đã miêu tả chuyện “má con cô Hai” bị giặc giết cùng con sáo trâu biết nói tiếng người thời Thủ khoa Huân khởi nghĩa (truyện “Miếu sáo trâu”). Trong CPN, rất nhiều lần người mẹ phải lên tiếng kêu cứu cho đàn chim, cũng là lời dạy nhân nghĩa đối với tuổi thơ còn dại dột. “Tôi bị má đánh đòn khi bắn thằng chái rớt bến sông. Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi ai cướp sự sống của con?...” (Truyện “Cánh chim thằng chài” - tức là chim bói cá).

Một cách khái quát hơn, trong truyện “Cú Mèo - chúa tể đêm”, TBĐ đã viết: “…Trời sinh muôn loài chắc là chẳng phải để giỡn chơi. Nếu chẳng phải để giỡn chơi, chắc trời ban mỗi loài có một giá trị về sinh thái và, nó cũng chẳng thể tách rời cả hệ sinh thái trong trời đất. Người “nhân danh” sự sống của mình, thay đổi hệ sinh thái thì chính sự thay đổi ấy sẽ từng bước cướp đi sự sống con người. Tàn sát chim cú mèo, vô tình người đứng về phía chuột, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho giống nòi chuột nhanh chóng sinh sôi nẩy nở…”.

Tuy không phải là chủ đề của cuốn sách, nhưng nhân nhắc đến chim Cú Mèo, tưởng cũng nên gỡ mối oan, đồng thời là sự mê tín cả tin của không ít người rằng tiếng cú báo điềm gở, chết chóc. Hãy nghe TBĐ thuật lại lời của “bác Hai ở Cần Thơ”: “Ở đâu đêm tối có chuột, có cú mèo… Tiếng nó kêu giữa đêm trường mù mù tăm tăm đó là tiếng gọi bạn tình… Tùy bóng đêm và tùy tình huống săn bắt con mồi mà nó “rung cây nhát khỉ” qua tiếng kêu phát ra nhiều loại âm thanh: Rit, hét, gầm gừ… Con mồi nghe âm thanh cú kêu khiếp sợ rời chỗ núp, chạy trốn. Cú chờ có vậy và con mồi nạp mạng!”

Bạn hãy tin lời “bác Hai” (cũng là lời TBĐ), khi ông “viết như là một liệu pháp để vượt qua những cơn đau của chứng bệnh nan y, quái ác…“vét cạn lòng, nạo khô dạ” thành câu chữ “vàng ròng Nam Bộ” …” (Hàn Tấn Quang) không chỉ mang đậm triết lý nhân sinh mà nhiều trang miêu tả chi tiết các loài chim, từ màu lông ở khóe mắt, hình thù các ngón chân… cho đến điệu hót gọi bạn tình, một cách tỉ mỉ, sáng rõ và sinh động, có lẽ các thầy giáo dạy sinh vật cũng… chào thua!

Bây giờ, xin nhắc thêm một câu nữa của Hàn Tấn Quang: “Hãy lần giở từng trang sách và đọc đi bạn…”.

N.K.P  
(TCSH345/11-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • GIÁNG VÂN

    LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.

  • HỒ THẾ HÀ

    Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất sắc trong thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cuộc sống và trang thơ của ông đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và giải mã ở tất cả các cấp độ thi pháp với giá trị độc sáng riêng của chúng. Người đến sau khó có những phát hiện gì thêm từ thế giới chỉnh thể nghệ thuật ấy.

  • NGUYỄN THÀNH NHÂN

    Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.” 

  • PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
    Nhân 17 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Văn Bổng (11/7/2001 - 11/7/2018)    

    Nói đến Nguyễn Văn Bổng trước hết chúng ta nói đến một nhà văn xứ Quảng anh hùng, giàu bản sắc, một nhà văn hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, một bút lực dồi dào, với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống, là nói đến một khối lượng lớn những tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký có giá trị… (Nhà thơ Hữu Thỉnh).

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân. 

  • NGUYỄN DƯ

    Đang loay hoay thu dọn lại tủ sách bỗng thấy cuốn Dã sử bổ di. Tự dưng muốn đọc lại. Nhẩn nha đọc… từ đầu đến cuối!

  • NGUYỄN VĂN SƯỚNG

    Đi như là ở lại(*) là tập bút ký viết về những vùng đất Lê Vũ Trường Giang đã đi qua trong hành trình tuổi trẻ. Tác phẩm dày gần 300 trang, gồm 15 bút ký.

  • TRUNG TRUNG ĐỈNH

    Khóa học đầu tiên của trường viết văn Nguyễn Du do ý tưởng của ai tôi không rõ lắm. Nhưng quả thật, sau 1975, lứa chúng tôi sàn sàn tuổi “băm”, cả dân sự lẫn lính trận đều vừa từ trong rừng ra, đa số học hết cấp III, có người chưa, có người đang học đại học gì đó.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Tuổi thơ bao giờ cũng chiếm một phần tất yếu trong ký ức chúng ta. Sống cùng tuổi thơ là sống bằng mộng, bằng mơ, bằng cái hồn nhiên, cái thiện ban sơ, thiên đường đuổi bắt.

  • LIỄU TRẦN

    Lưu lạc đến tay một tập viết nhỏ “Thiền sư ở đâu”, tác giả Bùi Long. Chợt nghĩ, thời này là thời nào còn viết kiểu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Có thể gọi đây là cuốn hồi ký đặc biệt vì nhiều lẽ. Trước hết, vì tác giả hình như chưa viết báo, viết văn bao giờ. Bà là PGS.TS chuyên ngành Dược, nguyên Phó Giám đốc Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lại có “thế mạnh” hơn nhiều cây bút khác - Cao Bảo Vân là con gái của tướng Cao Văn Khánh (1916 - 1980).

  • HOÀNG THỤY ANH    

    Đỗ Thượng Thế là giáo viên dạy mỹ thuật. Ấy thế mà, nhắc đến anh, người ta luôn nghĩ đến nhà thơ trẻ. Cũng đúng thôi, nhìn vào hoạt động thơ ca và các giải thưởng của anh mới thấy cuộc chơi chữ đã lấn át hoàn toàn sân họa.

  • DO YÊN     

    Trong không khí kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà văn - cựu chiến binh Nguyễn Quang Hà đã trình làng tiểu thuyết Nhật ký Đông Sơn, góp phần làm phong phú các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân.

  • TRẦN HOÀNG

    (Đọc "Giai thoại Nguyễn Kinh"
    Triều Nguyên sưu tầm - biên soạn. Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên 1990)

  • LÊ KHAI

    "Tuổi mười ba" tập thơ của Lê Thị Mây (Nhà xuất bản Thuận Hóa 1990) gợi người đọc nhận ra tính cách của nhà thơ.

  • NGUYÊN HƯƠNG    

    1. Có nhiều cách để người ta nói về Tết. Đó là một dịp để con người nghỉ ngơi, gặp gỡ, hàn huyên, và dù có được chờ đợi hay không thì Tết vẫn tới.

  • NGUYỄN VĂN CƯƠNG

    Thọ Xuân Vương Miên Định (1810 - 1886), tự là Minh Tỉnh, hiệu là Đông Trì, là con trai thứ ba của vua Minh Mạng và bà Gia phi Phạm Thị Tuyết.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BA   

    Mùa Xuân là một chủ đề được thi hào Nguyễn Du nhắc đến khá nhiều trong thơ chữ Hán của cụ. Lạ thay đó là những mùa xuân tha hương buồn bã đến chết người.

  • ĐỖ HẢI NINH

    Trong công trình Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954), trên cơ sở nghiên cứu về trí thức người Việt từ phương diện xã hội học lịch sử, GS. Trịnh Văn Thảo xếp Nguyễn Vỹ vào thế hệ thứ 3 (thế hệ 1925) trong số 222 nhân vật thuộc ba thế hệ trí thức Việt Nam (1862, 1907 và 1925)(1).

  • ĐỖ LAI THÚY

    Tôi có trên tay cuốn Tôi về tôi đứng ngẩn ngơ (tập thơ - tranh, Sách đẹp Quán văn, 2014) và Đi vào cõi tạo hình (tập biên khảo, Văn Mới, California, 2015) của Đinh Cường.