Có một đất nước của Trần Vàng Sao

09:30 29/06/2018

PHẠM PHÚ PHONG

Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân. 

Nhà thơ Trần Vàng Sao (1941-2018) - Ảnh: Lê Vĩnh Thái

Với một quan niệm nghệ thuật thấm đẫm những ưu tư của đời sống và tư duy nghệ thuật dường như lúc nào cũng “trục trặc” như chính cuộc sống của người sinh ra nó, đã tạo cho thế giới nghệ thuật của anh, những đặc điểm riêng.

1. Có khá nhiều thơ viết về đất nước và phải thừa nhận là có nhiều bài hay, trong đó có những bài đã trở nên cổ điển, khá phổ biến như Đất nước của Nguyễn Đình Thi hoặc chương Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng Trần Vàng Sao có một đất nước của riêng anh. Hình tượng đất nước trong thơ Trần Vàng Sao không thấm đẫm chất sử thi như “Đất nước của những người không bao giờ chịu khuất/ Đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng nói về” (Nguyễn Đình Thi) và cũng không quyện chặt chất văn hóa dân gian và lịch sử như “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn (...) Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm (...) Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở” (Nguyễn Khoa Điềm), mà đất nước trong cái ngước nhìn của Trần Vàng Sao là những gì gần gũi, cụ thể diễn ra hằng ngày trong đời sống, là gió sớm mai, nắng trưa gay gắt, là mưa chiều nặng hạt, là tiếng chim kêu, tiếng chó sủa, tiếng la mắng con của người hàng xóm, là nỗi nhọc nhằn của mẹ của cha, là “tôi yêu mẹ tôi áo rách/ chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu (...) mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng/ thương tôi nên ở góa nuôi tôi”. Thật khó tìm thấy những triết lý cao siêu, những tri thức văn hóa lịch sử đôi khi làm ta không nhớ hết, mà thơ anh là hơi thở thân thương của cuộc sống những người lao khổ, chưa đủ cơm no áo ấm, của những “căn nhà dột phên không ngăn nổi gió/ vẫn yêu nhau trong từng hơi thở/ lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài”. Tôi không biết trong các giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam họ dạy những gì, nhưng tôi nghĩ văn hóa Việt không cao siêu trừu tượng, mà hết sức gần gũi, cụ thể, đó chính là văn hóa đời sống thể hiện trong quan hệ hằng ngày, thực chất là văn hóa ứng xử. Và, vì vậy, có thể nói, thơ Trần Vàng Sao đầy ắp những vỉa tầng văn hóa Việt/ văn hóa nhân bản và chính vì được hấp thụ những giá trị văn hóa trầm tích lâu đời ấy, mà ta ngẫng cao đầu để sống nên người:

tôi yêu đất nước này như thế
như yêu cây cỏ trong vườn
như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
nuôi tôi thành người hôm nay


Chỉ trong một bài thơ, anh nhắc đi nhắc lại hơn mười lần cái mệnh đề “tôi yêu đất nước này...” như một điệp khúc, trước khi gọi tên đất nước xót xa, cay đắng, áo rách, rau cháo, lầm than, khôn nguôi... nhưng vẫn bắt nguồn từ căn nhà của mẹ, tấm áo vá của cha, từ vóc dáng người em kẹp tóc thuở học trò, và nhờ những khung cảnh thân thương ấy nuôi lớn thành người:

tôi yêu đất nước này chân thật
như yêu căn nhà nhỏ có mẹ tôi
như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
và yêu tôi đã biết làm người

               (Bài thơ của một người yêu nước mình)

2. Thực chất, từ trong cội nguồn lịch sử văn hóa dân tộc, đã hình thành nên đẳng thức: nước là của dân, dân là của nước. Nên đất nước là của nhân dân và nhân dân của thơ anh là những người cần lao cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm, những mẹ già, những em bé, người thợ thổi chai, thằng hề, người kéo màn... Chỉ qua những tiêu đề của các bài thơ cũng có thể nhận ra đối tượng trữ tình mà thơ anh hướng đến là những con người thuộc tầng lớp dưới, những con người nghèo khổ, bé mọn như đứa bé thả diều trên cánh đồng và vắt cơm cúng mả mới, lời khai của một người hề, người đàn ông mất trí và con chó chưa mở mắt, bản thánh ca của một tên hề mất trí là thi sĩ hay là sự tích tôi làm hề, trong cơn sốt đưa chị Miên về Đông Xuyên... Nhân dân của anh còn có những người đã khuất bởi chiến tranh, là bộ phận chi phối như một nổi ám ảnh nặng nề trong tâm tưởng cả đời anh, lúc vào tuổi ngoài bảy mươi, anh dành hẳn một bài thơ dài có vóc dáng một trường ca thảng thốt kêu lên như một nhà ngoại cảm Gọi tìm xác đồng đội (Nxb. Hội Nhà văn, 2012). Không phải bây giờ anh mới quan tâm đến “loại” nhân dân này, mà đã từng lướt qua “thập loại chúng sanh” trong bài văn bia, hoặc đã từng dựng tượng đài “Tổ quốc ghi công” trong bài đồng chí/ trong tâm tưởng anh với niềm hạnh nguyện lặp đi lặp lại như một điệp khúc “mi chết thật rồi sao”, một câu hỏi không có lời đáp lại, như hỏi trời hỏi đất, hỏi quá khứ, hỏi tương lai, hỏi tai ương chiến tranh hay hỏi chính tâm can mình thành một lời khẳng định: “mi đã chết thật rồi/ như Nguyễn Thiết, Lê Minh Trường, Phạm Bá Thuận, Chế Công Việt, Trần Văn Nam, Nguyễn Thị Nga...”. Câu thơ liệt kê tên các liệt sĩ dài đến hụt hơi, nhưng vẫn chưa đủ tên tuổi những đồng đội đã hy sinh, anh phải dành hơn ba mươi trang sách khổ lớn (21 x 29,7cm) để Gọi tìm xác đồng đội.

Đúng như nhan đề của tác phẩm, mỗi đoạn, mỗi trang như một bản tin nhắn tìm đồng đội trên đài truyền hình, với tên tuổi, địa chỉ, quê quán, nơi hy sinh, trường hợp hy sinh, địa chỉ người thân... cụ thể đến mức có thể căn cứ vào đó mà xác minh liệt sĩ. Mỗi người có mỗi hoàn cảnh cuộc đời, hoàn cảnh hy sinh khác nhau, những gì còn lại sau khi ngã xuống cũng khác nhau, người được công nhận liệt sĩ, người không. Có người được công nhận liệt sĩ nhưng bằng “Tổ quốc ghi công” không có người nhận phải treo ở trụ sở chính quyền địa phương. Hóa ra sự chết cũng phong phú không kém gì sự sống. Số lượng đông đảo hơn là “bản tin” tìm kiếm của người thân, những người mẹ, người cha, người vợ, người cậu, dì, cô, chú bác, anh, chị em và cả bạn bè đồng đội, những người còn lại sau chiến tranh, đau đớn đến quặn lòng gọi tìm đồng đội. Cả một tập thơ dài là một nỗi đau triền miên, là bản tổng kết về sự hy sinh mất mát của cả một thế hệ trong lịch sử dân tộc. Ai bảo chết là hết đâu? Nó vĩnh cửu với người đã chết nhưng vẫn còn sống mãi trong lòng của người đang sống. Do vậy, tập thơ không khỏi gây cảm xúc nặng nề, bởi nó được viết ra bằng máu và nước mắt của một người trong cuộc. Dường như anh không làm thơ, mà thể hiện tâm can của mình thành một lời tưởng niệm, một món nợ với những người đã khuất, mà người còn sống như anh phải trả, phải nhắc cho mọi người phải khắc ghi. Có thể nói, chưa có tác phẩm nào trình bày cụ một cách cụ thể và đông đảo nhiều trường hợp hy sinh như tác phẩm của Trần Vàng Sao. Đọc anh, càng suy ngẫm, càng thấm thía và quý trọng cái giá trị của cuộc sống độc lập, tự do hiện nay mà chúng ta đang có.

3. Một quan niệm nghệ thuật đòi hỏi phải thể hiện bằng một thi pháp tương ứng. Thơ Trần Vàng Sao thể hiện một quan niệm về đất nước và nhân dân đã đi qua một cuộc chiến tranh với tất cả sự dữ dội, tàn khốc, trần trụi đến mức tàn nhẫn với bao nhiêu người đã chôn vùi sự sống và tuổi thanh xuân của mình trong đó, nhưng không phải để bi quan, hư vô đến vô nghĩa mà luôn có cái nhìn ấm áp ở tương lai. Đặc điểm nổi bật trong cấu trúc thơ anh là vào cuối bài thường dùng những câu đồng cảm “vật ngã tương giao” với thiên nhiên, với thời tiết để soi rọi niềm tin vào sức sống của con người. Khi thì anh tiên đoán “đến chiều trời sẽ mưa dông rất mát” (tôi được ăn thịt), khi thì buồn lòng “trời vẫn không mưa cho được mát” (khoảng trống ngoài sân khấu), hoặc “trời mưa hoài không tạnh” (sự tích hòn bi của tôi). Đăc điểm này lặp đi lặp lại ở nhiều bài thơ của anh (nhớ Ức Trai, đưa vợ đi đẻ, buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa, lục bát, lúc đó, những lúc đó, những lúc đó có khi như thế, đêm). Ngay cả bài hai mươi mốt muôn năm, in cuối bài thơ dài Gọi tìm xác đồng đội như một lời vĩ thanh, cuối bài anh cũng tả: “đêm mưa không hết/ có tiếng chẻ củi ở nhà bên cạnh”, hoặc ngay trong bài Gọi tìm xác đồng đội, bên cạnh những dòng tin nhắn, những cái chết không toàn thây, không tìm thấy xác, anh vẫn dừng lại với bức tranh lãng mạn về những buổi sớm mai:

những buổi sớm mai
những buổi sớm mai thơm mùi lúa
tôi đi qua những cánh đồng đất mới cuốc lật
hai bên đường bông cỏ vừa nở
chim hót trong gió mát
và sương cũng mờ trong cây bên kia đường
em làm gì mà ngơ ngác như không thấy tôi
những buổi sớm mai
như thơ tôi
sớm mai
mặt trời mọc
như thơ tôi ở với trời đất ở với anh em bạn bè tôi người sống người chết
thơ tôi là đời tôi là tôi đây


Tuổi Tân Tỵ (1941) của anh nhiều người thành đạt, có đến gần ba mươi tác giả cùng tuổi với anh hanh thông trong cuộc đời và sự nghiệp. Riêng anh, cả cuộc đời và thơ dường như không mấy suôn sẻ. Nó như câu thơ của anh lúc nào cũng “trục trặc”, không vần không điệu, không trau chuốt về câu chữ, câu dài câu ngắn (có câu chỉ một từ, có câu dài đến mấy chục từ, đọc muốn hụt hơi). Giọng điệu thơ anh như được truyền trực tiếp từ đời sống. Anh viết giản đơn như nói. Nhưng điều quan trọng hơn, trong màu xanh của cây lá, của sự sống, anh không chỉ nhìn thấy màu sắc, hình vóc mà còn nhận ra được cả những đường gân lá, để hình dung ra diện mạo một đất nước của riêng anh, đất nước của những người lao khổ/ những người ngã xuống trong chiến tranh.

P.P.P  
(TCSH352&SDB29/06-2018)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.

  • “Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.

  • Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

  • Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.

  • Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

  • Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.

  • Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?

  • Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...

  • Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.

  • Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). 

  • (Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).

  • Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.

  • Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.

  • (Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)

  • YẾN THANH

    Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)

  • Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.

  • PHONG LÊ

    Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.