Tôi được biết có một nước Mỹ khác

10:45 26/09/2008
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

Tác giả và bà Grace Paley

Tôi thấy mình dấn thân vào cuộc tranh đấu ở đô thị và kháng chiến ở rừng núi chống Mỹ là rất chính đáng. Sau ngày thống nhất đất nước, Việt Nam không còn bóng dáng người Mỹ nữa, tôi yên tâm mình được sống xa người Mỹ. Nhưng cuộc đời không diễn ra theo ý chí của mình. Trong nghiên cứu Phong trào phản chiến ở các đô thị Việt Nam, tôi được  xem nhiều cuốn phim, đọc được nhiều tài liệu, báo chí viết về Phong trào phản chiến ở Mỹ, tôi biết đến Mục sư Martin Luther King, ca sĩ John Baez, nhà ngữ học Noam Chomsky, đến sinh viên các Đại học Berkley, sinh viên…tôi biết mình đã có những đồng chí đồng sựở bên Bắc Mỹ. Với những hiểu biết ấy, từ năm 1992, tôi có dịp tiếp xúc với một số thành viên trong Trung tâm William Joiner (WJC) - một tổ chức thuộc Đại học Massachusetts ở Boston chuyên nghiên cứu về chiến tranh, hậu quả chiến tranh nói chung và chiến tranh Việt Nam nói riêng. Về sau trung tâm nầy đã xin học bổng cho nhiều nhà văn Việt Nam (trong đó có nhiều người là bạn tôi) sang Mỹ thực hiện nhiều đề tài về chiến tranh cùng hậu quả chiến tranh Việt Nam và tìm hiểu tại chỗ về người dân Mỹ. Mãi đến năm 2007 nầy, sau 15 năm tôi biết có WJC, tôi được cấp học bổng Rockefeller sang Hoa Kỳ trình bày đề tài Văn thơ âm nhạc vận động hoà bình những năm 1964 -1966 tại miền Nam Việt Nam. Đề tài của tôi rất hợp với chủ trương chống chiến tranh xâm lược của WJC nên được chấp nhận một cách dễ dàng. Nhờ có WJC mà tôi có được một công trình nho nhỏ nhưng hết sức có ý nghĩa đối với cuộc đời cầm bút của tôi, thể hiện đúng tâm và chí một Sinh viên Phật tử những năm đầu thập niên sáu mươi của tôi. Và, thật bất ngờ, ngoài thành công trên, nhờ có WJC mà tôi còn có thể biết có một nước Mỹ khác. 

Trong thời gian ở Boston non hai tháng, tôi đã gặp được nhiều người Mỹ
của một nước Mỹ khác như ông bà Kevin Bowen (Giáo sư, nhà thơ) ĐH Massachusetts - Giám đốc WJC, nhà thơ Nguyễn Bá Chung - Giám đốc điều hành Chương trình nghiên cứu Rockefeller (2001-2007) của WJC, giáo sư Fred Marchant ở ĐH Suffokd… Qua những lần gặp gỡ, trao đổi, quan sát những việc họ đang làm, suy nghĩ về những điều họ nói tôi thật sự bất ngờ. Họ đón tiếp chúng tôi như những người bạn, chân thành, tận tụy, thể hiện lòng quý mến Việt Nam một cách lạ thường. Gặp các bạn Việt kiều ở Mỹ, tôi kể những chuyện tốt của các thành viên trong WJC, các bạn tôi có nhận xét rằng: Người Mỹ như thế đó. Những người xấu thì xấu thậm tệ, không ai chịu nổi. Những người tốt thì họ tốt cực kỳ, vô tư vô cùng. Nhiều người Việt mình thấy họ tốt quá đâm ra suy nghĩ chắc họ có ý đồ gì đó. Nhưng không, ở lâu mới thấy sự thực”.   

Qua quan sát và học hỏi tôi thấy mỗi người dân nước Mỹ là một
thế giới, ba trăm triệu người Mỹ là ba trăm triệu thế giới. Nhưng các bạn trong WJC lại bảo tôi: Cơ bản có hai nước Mỹ. Một nước Mỹ của chính người dân Mỹ, qua hệ thống luật lệ để phát triển, đã tạo nên một xã hội dân sự, một nước mà người dân so với các nước trên thế giới có quyền tự do ở cấp cực cao. Người Mỹ đã tự mình tranh đấu giải phóng cho người da đen, đưa tới sự bình quyền cho người da đen, tranh đấu giải phóng phụ nữ, quyền được đi bầu, được bình quyền với nam giới, và giải phóng cho tất cả các tôn giáo ngay trên nước Mỹ, quyền tự do phát triển v.v. Đó là một sự tiến bộ cho cả nhân loại, chứ không riêng gì cho nước Mỹ. Nó bắt đầu từ truyền thống bên Anh quốc, liên hệ với cuộc Cách mạng 1789 ở Pháp. Nhân loại tiến bộ học Mỹ là học cái nước Mỹ nầy. Nước Mỹ mà tôi hiểu lâu nay là nước Mỹ của các chính quyền trải qua các đời Tổng thống Mỹ. Mục tiêu quyền lợi của các chính quyền Mỹ nhiều khi không thống nhất, thậm chí đi ngược lại với quyền lợi và đạo đức của nhân dân Mỹ. Nhiều chính quyền Mỹ đắc cử nhờ tiền bạc của các nhà tài phiệt nên họ phải đại diện cho những thế lực tài phiệt, của những đại công-ty có quyền lợi trên khắp thế giới, nhất là những nước thuộc thế giới thứ ba. Chính vì quyền lợi của các thế lực tài phiệt đã dẫn đến các cuộc chiến tranh ngoài nước Mỹ. Nước Mỹ đã bí mật lật đổ Thủ tướng Iran Massadegh, Allende ở Chi-lê, Aristide ở Haiti.v.v.Nhiều cuộc chiến tranh của chính phủ Mỹ ở nước ngoài đã bị người dân Mỹ chống đối quyết liệt. Bởi vì những cuộc chiến tranh đó không phản ảnh đúng những giá trị nhân bản mà những người Mỹ trung thực đã tranh đấu hàng thế kỷ.

Các thành viên chính thức của WJC không đông, nhưng những người Mỹ của
một nước Mỹ khác đi theo đường lốicủa WJC rất đông. Tôi đã gặp họ trong những buổi giới thiệu thơ vận động hoà bình, thơ Thiền Việt Nam, những buổi nói chuyện và xem phim chất độc màu da cam mà người Mỹ đã thả xuống Việt Nam. Những người nầy không chỉ ở Mỹ mà còn ở Canada, Ucraina, Ý, các nước ở Nam Mỹ. Một trong những người Mỹ đó đã gây cho tôi bất ngờ nhất là bà Grace Paley.
Bà Grace Paley là nữ thi bá hàng đầu của nước Mỹ, bà rất yêu Việt Nam. Gia đình bà ở Nữu Ước. Sau khi bà được một giải thưởng lớn về thơ của nước Mỹ, bà bỏ cảnh xa hoa của đô thị hàng đầu thế giới để tìm mua một khu rừng vắng ở Tiểu bang Vermont gần biên giới Canada làm trang trại để an hưởng tuổi già. Từ Boston, các bạn trong WJC đưa chúng tôi đến thăm bà phải vượt qua hai Tiểu bang, đường xa đến bốn giờ ô-tô mới tới. Ngôi nhà của bà rất đơn sơ, cũ kỹ. Bà là người phụ nữ mang băng chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đầu tiên nên được coi là người mẹ của Phong trào phản chiến Việt Nam. Biết chúng tôi mới từ ở Việt Nam sang bà rất mừng. Bà ôm chúng tôi vào lòng và nói:
Việt Nam trong trái tim tôi!

Kỷ niệm lần đầu gặp nữ thi bá Grace Paley
Năm nay bà đã tám mươi lăm tuổi, sống với ông chồng trên chín mươi tuổi. Ngoài giờ làm thơ, viết văn hai ông bà trồng cỏ để bán cho những người nuôi bò. Trong nhà của bà chỉ độc nhất có một thứ tài sản là sách. Bà đã qua Việt Nam hai lần và có một lần đến Huế. Bà sợ nhà văn Việt Nam qua Mỹ thấy nước Mỹ to lớn, văn minh cứ nghĩ rằng nước Mỹ chỉ có những điều tốt. Bà nói rằng phần lớn nhà văn Mỹ là người của nhà nước, họ viết cho nhà nước Mỹ. Ngoài ra còn có các nhà văn nhân dân viết cho nhân dân, viết những mặt trái của xã hội Mỹ. Bìa sau tác phẩm Just as I Thought (Farrar Straus Giroux, Newyork), có đăng tấm ảnh bà mặc tạp dề chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.

Nhiều nhà văn Việt Nam có cuộc sống sướng hơn bà gấp nhiều lần, nhưng ít có người có tài năng mà lại chọn cuộc sống như bà. Lâu quá tôi không làm thơ, thế mà sau khi gặp bà Grace Paley, hồn thơ của tôi bỗng nhiên lai láng. Tôi phải viết ngay một bài để kỷ niệm một lần được đến thăm bà.

Thăm bà thi sĩ
                            
Rời Boston ta đi lên Vermont
Tu viện Làng Mai đã dời về Newyork
Ta ghé lại thăm một bà thi sĩ
Bỏ phố phường về sống giữa núi non

Bà bảo ta “Trong tim tôi có Việt Nam
Tôi là thi sĩ của nhân dân
Tôi là thi sĩ của một nước Mỹ khác
Không phải nước Mỹ đế quốc sài lang”

Tôi ở đây với thơ và bầu trời xanh
Hằng ngày hít thở không khí trong lành
Hồn thơ muôn thuở với cây cỏ
Với con người, với dân”

Bà là thi bá của nước Mỹ
Hồn thơ lai láng đẹp vô kể
Cuộc sống của bà hết sức giản đơn
Việt Nam có mấy thi nhân được như thế?

Nếu không có WJC với Kevin và Nguyễn Bá Chung làm sao chúng tôi có thể gặp được những người Mỹ như thế.
Nhìn lại những hoạt động của WJC trong 25 năm qua, chúng tôi dễ dàng đồng ý với nhau rằng WJC là chiếc cầu nối hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Mỹ.
Xin cám ơn các bạn có một lần đã cho tôi dạo qua chiếc cầu hữu nghị ấy.
                     Gác Thọ Lộc (Huế), Mùa Đông 2007
N.Đ.X

(nguồn: TCSH số 225 - 11 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VALENTIN HUSSON    

    Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.

  • HIỀN LÊ

    Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.

  • Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN  

    Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.

  • JEAN-CLET MARTIN   

    Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.

  • Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.

  • MARKUS GABRIEL   

    Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.

  • ĐỖ LAI THÚY  

    M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…

  • THÁI THU LAN

    Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.

  • NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG

    Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.

  • ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)

    Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.

  • LƯU TÂM VŨ
                hồi ký

    LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.

  • Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.

  • ALAN BURNS      

    William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.

  • Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.

  • NHƯ QUỲNH DE PRELLE  

    Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.

  • HÂN QUY

    (Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.