Nhà văn Nguyễn Quang Hà
Tôi là người rất yêu văn học, cho nên rất thích nghe các nhà văn kể chuyện. Tôi nhớ lần ấy nhà văn Nguyễn Đình Thi về nói chuyện ở Hà Bắc, chúng tôi vinh dự được ngồi tiếp xúc với ông. Trong câu chuyện qua lại, tôi có hỏi ông: “Chúng em biết trở thành nhà văn rất khó. Vậy làm thế nào để có được truyện ngắn và tiểu thuyết hở anh?” Ông Nguyễn Đình Thi đáp: “Điều quan trọng số một là phải có vốn sống. Mình phải sống thật sự, chan hòa với mọi người. Chính cuộc sống dấn thân ấy sẽ gợi ý cho chúng ta những điều muốn viết”. Vào chiến trường, tham gia chiến dịch Mậu Thân, đồng đội chúng tôi, và sự quả cảm của nhân dân, tôi thấy không thể không viết. Thời gian này ở Thừa Thiên có 2 tờ báo công khai ngoài chiến khu chúng tôi thường được đọc đó là tờ Cờ giải phóng, và tờ Cứu lấy quê hương. Tôi đã viết bài cho Cờ giải phóng. Cờ giải phóng in ngay “Chiến hữu” và sau đó in “Bà mẹ vùng sâu” rồi “Nguyễn Xuân Thưởng bạn tôi”. Được in, mừng lắm. Các chiến hữu trong đơn vị chuyền tay nhau đọc và khen, tôi thấy mình lâng lâng như cất cánh bay. Sau chiến dịch Mậu Thân, tôi được điều về làm trợ lý quân lực của Thành đội Huế. Về đây thường xuyên tiếp xúc với các đơn vị, các chiến sĩ, biết nhiều chuyện, tôi tiếp tục viết cho Cờ giải phóng. Không chỉ vậy, tôi có làm bài thơ “Chiếc ba lô”, gửi ra Văn nghệ Quân đội, tạp chí in ngay. Ngày Thành đội đóng ở khu rừng gần khe Xương Voi, gọi là khe Xương Voi, vì ở khe ấy có một con voi chết, khi biết được chỉ còn đống xương, thế là thành tên gọi. Ở đó, ngày vui nhất của tôi là được anh Nguyễn Đắc Xuân tới thăm. Anh Nguyễn Đắc Xuân là phóng viên kiêm biên tập viên của Cờ giải phóng và Cứu lấy quê hương. Ngoài trời rất rét, hai chúng tôi ngồi trong nhà có bếp lửa. Trò chuyện trong buổi gặp ấy, tôi kể cho anh Xuân nghe về những chiến công của đơn vị tôi và tôi định viết thế nào. Anh Xuân hỏi: “Có thích về làm báo không?” Tôi đáp: “Chuyện đó với tôi còn xa vời lắm”. Không ngờ sau đó anh Xuân về bàn với Ban biên tập báo. Cũng là thời điểm tờ báo đang thiếu người vì trong chiến dịch Mậu Thân có mấy phóng viên đã hy sinh, chỗ các anh đang bỏ trống đó. Vì vậy các anh xin tôi về làm báo. Nhận được quyết định tôi vừa mừng, vừa lo, không biết liệu mình có bám trụ được ở báo không, vì mình đã được học làm báo, viết văn bao giờ đâu. Lúc ấy 2 tờ báo của chiến khu đang đóng ở Chà Tang. Tôi về đó gặp anh Tư Sơn, anh Nguyễn Sự, anh Ngô Kha, anh Nguyễn Đắc Xuân và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, anh Trần Thân Mỹ. Sau này cũng ở Ban Tuyên huấn, tôi gặp họa sĩ Lê Khánh Thông, phóng viên Doãn Yến, hai nhà nhiếp ảnh Sĩ Thái và Văn Thái. Ít lâu sau nữa Nguyễn Khoa Điềm ở tuyên huấn khu ủy về. Tô Nhuận Vỹ từ ngoài bắc trở lại chiến trường. Đó là những nhà báo, nhà văn ở chiến trường đã rất nổi tiếng. Được gặp họ, tôi mừng, vì gần đèn tất được hưởng ánh sáng từ đèn tỏa ra. Anh Ngô Kha bảo tôi: “Quân đội thì có kỷ luật của quân đội, còn các nhà báo nhà văn thì nguyên tắc là tôn trọng nhau mà làm việc. Còn khi viết một bài báo thì phải hết lòng”. Tôi đáp: “Tôi xin hết lòng. Nhưng mới về Tòa soạn, tôi còn lớ ngớ lắm. Anh giúp đỡ tôi với nhé”. Anh Kha nói: “Cứ yên tâm đi”. Người giúp đỡ tôi quen dần với nghề làm báo chính là anh Ngô Kha. Tôi nhớ có một bản tin ghi trong máy ghi âm, anh Ngô Kha đưa máy cho tôi và bảo tôi viết lại, chỉ 400 từ thôi. Với ngọn đèn con, tôi ngồi viết bản tin, viết xong được anh Ngô Kha đọc, anh góp ý, vẽ tôi viết lại. Cứ như vậy, đúng một đêm thì mới hoàn thành công việc anh giao, khi anh gật đầu, tôi như mở cờ trong bụng. Từng bước một, cứ thế qua dần. Có vấn đề gì cần cho tờ báo, anh cử tôi đi. Khi địa phương này, khi địa phương kia, tôi chấp hành nghiêm chỉnh. Khi anh Kha khen: “Làm được phóng viên rồi đấy”. Lúc ấy tôi mới yên lòng. Và dặn lòng mình phải không ngừng cố gắng hơn nữa. Là phóng viên báo, chúng tôi chia nhau về các địa phương để phản ảnh kịp thời tin tức khu vực đó. Doãn Yến đi Phú Vang. Ngô Kha đi hết Phú Vang về Hương Thủy. Sĩ Thái đi Hương Trà. Tôi và Nguyễn Khoa Điềm được cử đi Phong Điền, Quảng Điền. Đến đâu tôi cũng nhớ lời anh Nguyễn Đình Thi dặn phải sống cho hết lòng để có vốn sống. Càng lao vào làm báo, tôi thấy vốn sống thật quan trọng. Điều gì, chi tiết nào mình đã kinh qua thì khi viết dễ dàng hơn. Được sống gần các văn nghệ sĩ quả là điều rất quan trọng đối với tôi. Ngoài làm báo, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Doãn Yến, Nguyễn Khoa Điềm còn làm thơ, viết truyện. Các anh ấy đã có nhiều bài được in ở các báo ngoài miền Bắc, được đọc trong chương trình văn nghệ vào 10 giờ 30 phút của Đài Tiếng nói Việt Nam. Chúng tôi xúm vào đọc của nhau, nghe của nhau. Riêng tôi, thấy mình không thể không viết. Các tác phẩm của các anh kích thích tôi lạ lùng. Thế là tôi cũng tập làm thơ, tập viết văn. Tôi viết xong bài thơ, bài văn nào cũng đưa anh Ngô Kha đọc giúp rồi nhờ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân góp ý. Được sự giúp đỡ của các anh, tôi tự nâng mình lên từng mi li mét. Tôi liều mạng gửi mấy bài ra Văn nghệ Quân đội và báo Văn Nghệ, được đăng. Các anh đến chúc mừng tôi. Một bước ngoặt đã đến với tôi, nếu tôi nhớ không nhầm, bấy giờ là năm 1970, không khí văn nghệ trên chiến khu đã phát triển mạnh, về phong trào sinh viên từ thành phố Huế đã tưng bừng, nhiều bài thơ, văn từ thành phố gửi lên làm nức lòng anh em chiến khu, các tác giả mà chúng tôi thường được đọc là của nhà thơ Ngô Kha (Ngô Kha trong thành phố), của Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc, Hà Khánh Linh, và nhiều anh chị khác nữa. Chính nhờ thời điểm văn nghệ rực rỡ ấy trên chiến khu, tại Chà Tang đã tổ chức thành lập Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế. Trong đại hội này, tôi được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế. Đó là một ngày vui nhất của tôi. Tôi vào hội với tư cách là một người làm thơ. Mãi đến năm 1974, tôi được tham dự Trường Viết văn ở Quảng Bá, Hà Nội. Trong trường, tôi được tiếp xúc với nhà thơ Xuân Diệu. Biết tôi ở chiến trường ra, anh bảo tôi kể chuyện chiến đấu ở Thừa Thiên Huế cho anh nghe. Tôi kể huyên thuyên nhiều chuyện lắm. Anh Xuân Diệu nhận xét: “Vốn sống ấy có thể viết truyện được đấy. Thử viết một truyện ngắn cho anh xem nào”. Được anh Xuân Diệu khuyến khích, tôi cắm cúi viết cho xong truyện ngắn đầu tiên “Ghi ở 815”, anh khen hay và đưa đến báo Văn Nghệ cho in ngay ở trang 1. Anh bảo tôi viết tiếp. Mấy truyện ngắn tôi đưa anh, tự anh đem đến báo Văn Nghệ cho in. Xong anh bảo tôi: “Văn xuôi của em khá hơn thơ đấy. Theo anh, với vốn sống chiến trường, em có thể viết văn xuôi được”. Từ đó hầu như tôi bỏ thơ và chuyển sang viết văn xuôi. Một món nợ mà tôi phải trả là đồng đội mình và nhân dân mình, tôi đã viết như một món nợ phải trả. Nếu không được điều về báo Cờ giải phóng, không có những ngày sống quyết liệt trên đất Thừa Thiên Huế, không được sống với các anh chị văn nghệ sĩ ở Thừa Thiên, chắc tôi khó lòng trở thành một nhà văn như bây giờ. Cho nên tôi hiểu việc tôi được trở thành hội viên Hội Văn nghệ Giải phóng Thừa Thiên Huế là một bước ngoặt rất đáng kể trong quá trình sáng tác của tôi. N.Q.H (260/10-10) |
TRẦN THỊ TRƯỜNGBước chân vào cái ngõ 45 Phan Bội Châu gặp mùi bánh trứng nướng thơm phức bao trùm, ngỡ ngàng: “Ông Trần Đình Hiến còn là một chủ lò bánh?”. Nhưng: - Không phải đâu. Khu nhà này hầu hết là mấy anh em ruột chúng tôi sinh sống. Lò bánh này của một chú, còn các người khác mỗi người một nghề. Các em tôi đều chịu khó. Vâng, bây giờ ai chẳng lấy chịu khó làm đầu...
Chính Bùi Hiển dẫn lời bạn ông nói rằng văn ông đi từ hướng ngoại đến hướng nội, hàm ý chín dần, mỗi ngày mỗi gần hơn với cốt lõi văn chương. Tôi không thấy như vậy.
NGÔ MINHSau hai cuộc hành trình vất vả hơn 2600 cây số đi về Đại hội Nhà văn khu vực miền Trung ở Nha Trang giữa tháng 3, rồi Đại hội Nhà Văn Việt Nam VII, bắt đầu từ 22/4 đến 10 giờ rưỡi đêm 27/4 tôi mới về tới nhà mình ở Huế, ngồi trước máy vi tính viết những dòng buồn vui lẫn lộn.
THANH THẢO 6 năm nay, kể từ cái đêm thơ nhạc kỷ niệm 40 năm đường 559 do nhà thơ Phạm Tiến Duật dẫn chương trình, trong đêm ấy Tế Hanh vì quá xúc động khi nhớ lại chuyến đi qua Trường Sơn của mình đầu năm 1974, ông đã bị xuất huyết não. 6 năm ấy, không thể có một cuộc phỏng vấn hay “gặp gỡ” nào được thực hiện với Tế Hanh, đơn giản vì ông không nói được. Tôi nghĩ, 6 năm nay, Tế Hanh chỉ còn trò chuyện với dòng sông của mình, dòng sông của đời mình, trong im lặng. Vì thế, những cuộc trò chuyện tôi kể sau đây đều thuộc về thời gian trước khi Tế Hanh lâm trọng bệnh.
LTS: Kể từ khi xuất hiện với bạn đọc qua bài bút ký đầu tiên có tên là Gọi nắng và chùm thơ Đời chị trên tạp chí Sông Hương lúc tuổi đời mới hai mươi, gần 10 năm qua, Văn Cầm Hải là một “hiện tượng văn học” của nhiều cuộc tranh luận vì phong cách lập ngôn mới lạ của mình. Bước vào mùa xuân mới, đúng vào ngày sinh nhật 20/1/2005 của mình, Văn Cầm Hải đã chính thức trở thành một trong những nhà văn trẻ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Vốn là người kín tiếng đến mức “lập dị” nhưng nhân dịp xuân vui này, nhà văn Văn Cầm Hải đã “bật mí” nhiều điều, từ A đến Z trong cuộc sống của anh với Sông Hương.
Sáng ngày 24-2-2005 tại trụ sở 26 Lê Lợi - Huế, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức lễ tưởng niệm nhà thơ Huy Cận. Nhiều cơ quan, ban ngành tỉnh, thành phố Huế và anh chị em văn nghệ sĩ đã tới dự. Sông Hương trân trọng giới thiệu “điếu văn” do nhà thơ Võ Quê đọc trong lễ tưởng niệm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Tưởng nhớ nhà thơ Lương An)Năm 1984, sau khi cùng anh chị em văn nghệ đón di hài nhà thơ Vĩnh Mai về Huế, nhà thơ Lương An - người đồng hương, người bạn thơ gần gũi với Vĩnh Mai đã viết bài "Đón anh về lại Huế thơ": Anh về lại Huế hôm nay / Huế đang mưa bỗng tạnh ngày nắng xuân...
HỒ SĨ HIỆPBa Kim, tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Thị Cam, sinh năm 1904, người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Ông viết văn rất sớm, nổi tiếng trên văn đàn từ thời "ngũ tứ vận động" (1919) và hoạt động văn học sôi nổi từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, tên tuổi ngang hàng với các nhà văn Mao Thuẫn, Tào Ngu và Lão Xá.
TRUNG SƠN(Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất nhà thơ Phùng Quán)I. Hơn mười năm trước - mùa hè 1992, một cuộc “khai quật” ở Huế đã làm chấn động dư luận. Trong lúc đào hố móng xây dựng một căn nhà tại trụ sở Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Thừa Thiên Huế, người ta đã phát hiện một ngôi mộ tập thể gồm 17 bộ hài cốt, một số vũ khí, đạn và 3 kỷ vật còn ghi rõ tên hiệu, đơn vị Vệ quốc đoàn hồi năm 1946.
XUÂN TÙNG Chòi trống im lìm, khách ngẩn ngơ Bình khô, rượu cạn, điếu chăng tơ Bao giờ điếu lại reo êm ái Nhà rộn tiếng cười, ấm giọng thơ...
TRẦN THỊ LINH CHIXuất thân gia đình quan lại, học giỏi nhưng lại không chịu theo đuổi đến nơi đến chốn để khoa bảng đề tên, tiến bước công danh hầu nối nghiệp nhà, cha tôi bỏ dở chương trình tú tài sau khi đậu thành chung, làm một công chức kiếm sống qua ngày, dành hết cuộc đời cho văn học. Năng khiếu phê bình của ông đã biểu hiện ngay từ thời còn đi học.
PHAN TRUNG THÀNHTháng giêng năm 2003, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đêm thơ Nguyên Tiêu lần thứ I, theo sáng kiến thành lập “Ngày thơ Việt Nam” của Hội Nhà văn Việt Nam.
BẢO CƯỜNGLTS: Trên 40 năm ngâm thơ và đệm sáo cho thơ từ ra Bắc, từ trong nước ra nước ngoài, Bảo Cường hiện là một nghệ sỹ lão luyện trong nghề. Bài viết dưới đây, như chính tác giả nói: “Với lòng thiết tha mong mỏi bộ môn ngâm thơ và đệm sáo cho thơ ngày một phát triển, để mọi người và nhất là giới trẻ yêu thơ có cơ hội tìm hiểu đào sâu về hai bộ môn này.”
TRẦN NINH HỒLTS: Trần Ninh Hồ tên thật là Trần Hữu Hỷ. Lính Đông Bộ 1971 - 1976, 1977 - Trưởng ban Văn thơ báo Văn Nghệ. Nguyên chủ nhiệm Bảo tàng Văn học Việt …Bình quân cứ độ dăm năm, nhà thơ Trần Ninh Hồ lại có một "đợt" xuất bản thơ. Anh là cây bút sung sức trong suốt mấy thập niên vừa qua của nền thơ hiện đại Việt Nam, từ cuộc chiến tranh chống Mỹ cho suốt đến những ngày hôm nay...Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã có cuộc trao đổi với nhà thơ Trần Ninh Hồ trong một cách nhìn riêng biệt.
INRASARACác hội thảo bàn về nâng cao tính chuyên nghiệp trong sáng tạo văn học đã lôi kéo không ít nhà văn tham gia bàn cãi sôi nổi. Là tín hiệu đáng mừng: văn học Việt đang tự ý thức, tự phản tỉnh (self consciousness).
TRẦN ĐÌNH SỬThực tế nghèo nàn về thành tựu khoa học xã hội và nhân văn của chúng ta có thể tìm thấy nguyên nhân trong lối tư duy độc tôn một thời ở lĩnh vực học thuật. Cội nguồn sâu xa của lối tư duy ấy đang nằm trong di chứng của thời kì chiến tranh kéo dài ba mươi năm và cuộc đấu tranh ý thức hệ tàn khốc.
NGUYỄN THANH MỪNGKhái niệm nhà văn làm báo chắc không phải là chuyện lạ, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Cánh cửa mở ra cho nhà văn tung hoành trên “sân cỏ” báo chí không đơn thuần là chuyện “cơm áo không đùa...” mà vì nơi đây, nhà văn thể hiện mình ở nhiều góc độ khác nhau, hiểu từ hai phía, nhu cầu biểu lộ tâm trạng của họ và nhu cầu của đời sống đất nước và nhân dân đòi hỏi ở họ.
TRƯỜNG NHÂNLTS: Cũng như cuộc đời, văn nghệ có biết bao buồn vui. Nhà văn cũng là người, cho nên có lúc cũng dở khóc dở cười bởi những chuyện ngoài văn chương. “Vạch túi cho người xem... bia” là câu chuyện hậu kì để bạn đọc chia sẻ với chuyện bếp núc làng văn.
NGUYÊN ANMột nhà văn đồng hương cao niên hỏi tôi:- Sao bây giờ ta mới quen nhau nhỉ?Tôi chưa kịp trả lời, ông đã nói tiếp:- Thôi, từ nay nhé!
THANH THẢOLTS: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã về Huế. Có thể nói đấy là một sự kiện - một sự kiện trang nghiêm lặng lẽ.Là người có căn lành, cuộc trở về của ông dường như mãn vẹn. Ông đã trở về với nơi xuất phát, trở về với “ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, trở về với tư cách một công dân thi sĩ.Sông Hương có nhã ý “cập nhật” ông từ đầu nhưng qua dò ướm, biết ông chưa muốn, Sông Hương đành để các báo bạn “post” trước.Mặc dầu “truy cập” sau nhưng Sông Hương với ông, với người Tổng Biên tập đầu tiên - Tổng Biên tập sáng lập hẳn còn nhiều duyên nợ, dài dài...