Tôi đã trở thành hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế như thế nào

10:09 21/10/2010
NGUYỄN QUANG HÀ(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Chiến dịch Mậu Thân 1968 đang cần quân để đánh vào thành phố, trước tình hình ấy, chúng tôi được huy động vào quân đội, và sau những tháng tập mang vác nặng, tập leo núi, tập bắn, tập tiến nhập, chúng tôi được điều vào Bác Đô (đó là bí danh Thừa Thiên Huế lúc bấy giờ).

Nhà văn Nguyễn Quang Hà

Tôi là người rất yêu văn học, cho nên rất thích nghe các nhà văn kể chuyện. Tôi nhớ lần ấy nhà văn Nguyễn Đình Thi về nói chuyện ở Hà Bắc, chúng tôi vinh dự được ngồi tiếp xúc với ông. Trong câu chuyện qua lại, tôi có hỏi ông: “Chúng em biết trở thành nhà văn rất khó. Vậy làm thế nào để có được truyện ngắn và tiểu thuyết hở anh?”

Ông Nguyễn Đình Thi đáp: “Điều quan trọng số một là phải có vốn sống. Mình phải sống thật sự, chan hòa với mọi người. Chính cuộc sống dấn thân ấy sẽ gợi ý cho chúng ta những điều muốn viết”.

Vào chiến trường, tham gia chiến dịch Mậu Thân, đồng đội chúng tôi, và sự quả cảm của nhân dân, tôi thấy không thể không viết. Thời gian này ở Thừa Thiên có 2 tờ báo công khai ngoài chiến khu chúng tôi thường được đọc đó là tờ Cờ giải phóng, và tờ Cứu lấy quê hương. Tôi đã viết bài cho Cờ giải phóng. Cờ giải phóng in ngay “Chiến hữu” và sau đó in “Bà mẹ vùng sâu” rồi “Nguyễn Xuân Thưởng bạn tôi”. Được in, mừng lắm. Các chiến hữu trong đơn vị chuyền tay nhau đọc và khen, tôi thấy mình lâng lâng như cất cánh bay.

Sau chiến dịch Mậu Thân, tôi được điều về làm trợ lý quân lực của Thành đội Huế. Về đây thường xuyên tiếp xúc với các đơn vị, các chiến sĩ, biết nhiều chuyện, tôi tiếp tục viết cho Cờ giải phóng. Không chỉ vậy, tôi có làm bài thơ “Chiếc ba lô”, gửi ra Văn nghệ Quân đội, tạp chí in ngay.

Ngày Thành đội đóng ở khu rừng gần khe Xương Voi, gọi là khe Xương Voi, vì ở khe ấy có một con voi chết, khi biết được chỉ còn đống xương, thế là thành tên gọi. Ở đó, ngày vui nhất của tôi là được anh Nguyễn Đắc Xuân tới thăm. Anh Nguyễn Đắc Xuân là phóng viên kiêm biên tập viên của Cờ giải phóngCứu lấy quê hương. Ngoài trời rất rét, hai chúng tôi ngồi trong nhà có bếp lửa. Trò chuyện trong buổi gặp ấy, tôi kể cho anh Xuân nghe về những chiến công của đơn vị tôi và tôi định viết thế nào. Anh Xuân hỏi: “Có thích về làm báo không?”

Tôi đáp: “Chuyện đó với tôi còn xa vời lắm”.

Không ngờ sau đó anh Xuân về bàn với Ban biên tập báo. Cũng là thời điểm tờ báo đang thiếu người vì trong chiến dịch Mậu Thân có mấy phóng viên đã hy sinh, chỗ các anh đang bỏ trống đó. Vì vậy các anh xin tôi về làm báo. Nhận được quyết định tôi vừa mừng, vừa lo, không biết liệu mình có bám trụ được ở báo không, vì mình đã được học làm báo, viết văn bao giờ đâu.

Lúc ấy 2 tờ báo của chiến khu đang đóng ở Chà Tang. Tôi về đó gặp anh Tư Sơn, anh Nguyễn Sự, anh Ngô Kha, anh Nguyễn Đắc Xuân và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, anh Trần Thân Mỹ. Sau này cũng ở Ban Tuyên huấn, tôi gặp họa sĩ Lê Khánh Thông, phóng viên Doãn Yến, hai nhà nhiếp ảnh Sĩ Thái và Văn Thái. Ít lâu sau nữa Nguyễn Khoa Điềm ở tuyên huấn khu ủy về. Tô Nhuận Vỹ từ ngoài bắc trở lại chiến trường. Đó là những nhà báo, nhà văn ở chiến trường đã rất nổi tiếng. Được gặp họ, tôi mừng, vì gần đèn tất được hưởng ánh sáng từ đèn tỏa ra.

Anh Ngô Kha bảo tôi: “Quân đội thì có kỷ luật của quân đội, còn các nhà báo nhà văn thì nguyên tắc là tôn trọng nhau mà làm việc. Còn khi viết một bài báo thì phải hết lòng”.

Tôi đáp: “Tôi xin hết lòng. Nhưng mới về Tòa soạn, tôi còn lớ ngớ lắm. Anh giúp đỡ tôi với nhé”.

Anh Kha nói: “Cứ yên tâm đi”.

Người giúp đỡ tôi quen dần với nghề làm báo chính là anh Ngô Kha. Tôi nhớ có một bản tin ghi trong máy ghi âm, anh Ngô Kha đưa máy cho tôi và bảo tôi viết lại, chỉ 400 từ thôi. Với ngọn đèn con, tôi ngồi viết bản tin, viết xong được anh Ngô Kha đọc, anh góp ý, vẽ tôi viết lại. Cứ như vậy, đúng một đêm thì mới hoàn thành công việc anh giao, khi anh gật đầu, tôi như mở cờ trong bụng. Từng bước một, cứ thế qua dần. Có vấn đề gì cần cho tờ báo, anh cử tôi đi. Khi địa phương này, khi địa phương kia, tôi chấp hành nghiêm chỉnh.

Khi anh Kha khen: “Làm được phóng viên rồi đấy”.

Lúc ấy tôi mới yên lòng. Và dặn lòng mình phải không ngừng cố gắng hơn nữa. Là phóng viên báo, chúng tôi chia nhau về các địa phương để phản ảnh kịp thời tin tức khu vực đó. Doãn Yến đi Phú Vang. Ngô Kha đi hết Phú Vang về Hương Thủy. Sĩ Thái đi Hương Trà. Tôi và Nguyễn Khoa Điềm được cử đi Phong Điền, Quảng Điền. Đến đâu tôi cũng nhớ lời anh Nguyễn Đình Thi dặn phải sống cho hết lòng để có vốn sống. Càng lao vào làm báo, tôi thấy vốn sống thật quan trọng. Điều gì, chi tiết nào mình đã kinh qua thì khi viết dễ dàng hơn.

Được sống gần các văn nghệ sĩ quả là điều rất quan trọng đối với tôi. Ngoài làm báo, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Doãn Yến, Nguyễn Khoa Điềm còn làm thơ, viết truyện. Các anh ấy đã có nhiều bài được in ở các báo ngoài miền Bắc, được đọc trong chương trình văn nghệ vào 10 giờ 30 phút của Đài Tiếng nói Việt Nam. Chúng tôi xúm vào đọc của nhau, nghe của nhau. Riêng tôi, thấy mình không thể không viết. Các tác phẩm của các anh kích thích tôi lạ lùng. Thế là tôi cũng tập làm thơ, tập viết văn. Tôi viết xong bài thơ, bài văn nào cũng đưa anh Ngô Kha đọc giúp rồi nhờ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân góp ý. Được sự giúp đỡ của các anh, tôi tự nâng mình lên từng mi li mét. Tôi liều mạng gửi mấy bài ra Văn nghệ Quân đội báo Văn Nghệ, được đăng. Các anh đến chúc mừng tôi.

Một bước ngoặt đã đến với tôi, nếu tôi nhớ không nhầm, bấy giờ là năm 1970, không khí văn nghệ trên chiến khu đã phát triển mạnh, về phong trào sinh viên từ thành phố Huế đã tưng bừng, nhiều bài thơ, văn từ thành phố gửi lên làm nức lòng anh em chiến khu, các tác giả mà chúng tôi thường được đọc là của nhà thơ Ngô Kha (Ngô Kha trong thành phố), của Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc, Hà Khánh Linh, và nhiều anh chị khác nữa. Chính nhờ thời điểm văn nghệ rực rỡ ấy trên chiến khu, tại Chà Tang đã tổ chức thành lập Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế. Trong đại hội này, tôi được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế.

Đó là một ngày vui nhất của tôi.

Tôi vào hội với tư cách là một người làm thơ. Mãi đến năm 1974, tôi được tham dự Trường Viết văn ở Quảng Bá, Hà Nội. Trong trường, tôi được tiếp xúc với nhà thơ Xuân Diệu. Biết tôi ở chiến trường ra, anh bảo tôi kể chuyện chiến đấu ở Thừa Thiên Huế cho anh nghe. Tôi kể huyên thuyên nhiều chuyện lắm. Anh Xuân Diệu nhận xét: “Vốn sống ấy có thể viết truyện được đấy. Thử viết một truyện ngắn cho anh xem nào”.

Được anh Xuân Diệu khuyến khích, tôi cắm cúi viết cho xong truyện ngắn đầu tiên “Ghi ở 815”, anh khen hay và đưa đến báo Văn Nghệ cho in ngay ở trang 1. Anh bảo tôi viết tiếp. Mấy truyện ngắn tôi đưa anh, tự anh đem đến báo Văn Nghệ cho in. Xong anh bảo tôi: “Văn xuôi của em khá hơn thơ đấy. Theo anh, với vốn sống chiến trường, em có thể viết văn xuôi được”.

Từ đó hầu như tôi bỏ thơ và chuyển sang viết văn xuôi. Một món nợ mà tôi phải trả là đồng đội mình và nhân dân mình, tôi đã viết như một món nợ phải trả.

Nếu không được điều về báo Cờ giải phóng, không có những ngày sống quyết liệt trên đất Thừa Thiên Huế, không được sống với các anh chị văn nghệ sĩ ở Thừa Thiên, chắc tôi khó lòng trở thành một nhà văn như bây giờ. Cho nên tôi hiểu việc tôi được trở thành hội viên Hội Văn nghệ Giải phóng Thừa Thiên Huế là một bước ngoặt rất đáng kể trong quá trình sáng tác của tôi.

N.Q.H
(260/10-10)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vậy mà, đã hơn 50 năm, từ những năm tháng trẻ tuổi… Huế, ngày ấy đã xa. Đã là kỷ niệm. Đã mất đi nhưng vẫn không ngừng sinh nở. Như những câu thơ, một thời…

  • Việt Đức - Võ Quê - Phạm Xuân Phụng - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Văn Vũ - Lê Phùng - Thùy Phương - Trần Băng Khuê

  • Trại sáng tác văn học với chủ đề “Vinh Xuân - Mùa biển gọi” do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND xã Vinh Xuân tổ chức, diễn ra trong thời gian từ ngày 3/5 đến ngày 10/5/2024, gồm 14 nhà văn, nhà thơ và 1 nhạc sĩ khách mời, đã cho ra đời 58 tác phẩm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Ngày 18/9/1945, tại số 43 đường Trần Hưng Đạo, thành phố Thuận Hóa, Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên - tiền thân của Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế ngày nay được thành lập.

  • CHU SƠN

    Cuối năm 1963 tôi từ Hội An ra Huế để nhận lại tập thơ Quê Nhà và giấy phép xuất bản tại nha thông tin Trung Việt.

  • TRẦN DZẠ LỮ

    Gần một đời người làm thơ, sống giữa Sài Gòn với bao nhiêu thăng trầm dâu bể, có những ngày đói rách, lang thang. Bạn bè thì nhiều, có kẻ nhớ người quên sống khắp cùng đất nước, nơi đâu cũng để lại trong tôi ít nhiều kỷ niệm.

  • (SHO) Những người tôi gặp ở Huế trẻ hay già thường ngưỡng mộ anh là Thầy, một vị Thầy của môn âm nhạc, của tiếng, của lời, thân hay sơ mỗi người đều như chịu ít nhiều ân huệ của anh.  Nhưng thoạt mơ hồ tôi hiểu danh hiệu ấy khác hơn khi được ngồi với anh, bên bàn cơm, khi vui ca, khi đi dạo, khi nghe anh hát, khi thấy anh ngồi yên giữa bạn bè, anh hiện ra là vị Thầy bên trên âm nhạc... 

  • Mặc dù được các bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng GS-TS Trần Văn Khê đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 2 giờ 55 phút ngày 24.6. Ông thọ 94 tuổi.

  • LTS: Ngày 17-7-1988 nhà thơ THANH TỊNH đã qua đời tại Hà Nội sau một cơn bệnh nặng, thọ 77 tuổi. Tưởng niệm nhà thơ, người anh người đồng nghiệp đáng kính của anh em văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của anh Hoàng Trung Thông và đoạn trích trong Điếu văn đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ tại trụ sở Hội văn nghệ B.T.T ngày 19-7-1988.

  • DƯƠNG THỊ NHỤN

    Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.

  • LGT: Thúc Tề và Trần Kim Xuyến là hai nhà báo có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Một vấn đề đặt ra là: trong hai nhà báo liệt sĩ nói trên, ai mới đúng là “Nhà báo liệt sĩ đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam?”. Nhiều ý kiến công nhận nhà báo Trần Kim Xuyến là nhà báo liệt sĩ đầu tiên, trong khi các tư liệu lại cho chúng ta thấy Thúc Tề mới đúng là nhà báo liệt sĩ đầu tiên.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Trong số bạn bè thân tình của tôi, Ngô Minh rất “lạ”. Lạ đầu tiên là… nhỏ thó. Người thấp bé, tròn vo, tròn vo từ mấy chục năm ni luôn, chừ lại suốt ngày (e cả suốt đêm) ngồi máy tính viết bài.

  • Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như: Nhằm thẳng quân thù mà bắnThuyền trưởngRừng xưa xanh lá ;Kiếp chóNhững người rách việc; Chuyện kể năm 2000... đã qua đời vào lúc 6 giờ sáng ngày 18.12. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bước vào sáng tác văn chương từ năm 20 tuổi và đã có một bút lực dồi dào để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị.

  • Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 , quê  làng Trà Vi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Hội Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và bị Pháp bắt vào cuối năm 1930 và bị giam hai tháng rưỡi tại thị xã Thái Bình.

  • Thi sĩ Kiên Giang là tác giả những bài thơ nổi tiếng Hoa trắng thôi cài lên áo tím, Tiền và lá, Ngủ bên chân mẹ… Ông cũng là soạn giả của những vở cải lương quen thuộc như Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Chi - Mỵ Nương và hàng trăm bản vọng cổ. Như người bạn văn tâm giao Sơn Nam và thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính, Kiên Giang cả một đời phiêu bạt sống rày đây mai đó, cho đến khi trái tim đột ngột ngừng đập”...

  • Ở tuổi 89, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - tác giả của ca khúc nổi tiếng "Dư âm" sống nghèo túng, bệnh tật và cô đơn trong căn nhà nhỏ giữa lòng Sài Gòn.

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Nhà văn Trần Áng Sơn sinh ngày 12/7/1937 tại Hải Phòng, lớn lên ở Huế, trưởng thành ở Sài Gòn, mất ngày: 18/5/ 2014.

  • QUANG VIÊN

    Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là vị tướng tài năng và đức độ. “Ông là một danh tướng, một nhà chính trị và nhà quân sự lỗi lạc” - Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thốt lên khi nhớ về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như vậy. Trong cuộc sống tình cảm gia đình, cũng như ứng xử với văn hóa văn nghệ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng hết sức chí tình, có những việc làm rất đáng khâm phục. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về ông rất hay: “Sáng trong như ngọc một con người”…