TRƯƠNG ĐĂNG DUNG
Nhà thơ Trương Đăng Dung bên mộ nhà thơ Hungary Holló András - Ảnh: tư liệu
… Thế giới vẫn không ngừng tiếng súng
đạn bắn vào con người trong chiến tranh
đạn bắn vào con người trong hòa bình
lớp lớp xương người làm cốt sắt
bê tông trái đất nặng nề quay.
Không có gì mới đâu, thi sĩ
mỗi ngày sống là một ngày thất vọng
từ Tây sang Đông
người sợ con người.
Hai mươi bốn năm rồi thêm một lần khóc bạn
giữa Châu Âu bất an
tôi ngửa mặt nhìn trời.
(Bên mộ một nhà thơ)
Hungary, 17/08/2016
1. Tình thế của con người
Những câu thơ trên đây trích từ bài thơ Bên mộ một nhà thơ tôi viết cách đây sáu năm, in trong tập Em là nơi anh tị nạn vừa mới xuất bản. Tôi muốn bắt đầu bản tham luận bằng những câu thơ đó thay cho lời dẫn nhập.
Thế kỷ XX đã khép lại hơn hai thập niên. Một thế kỷ mà trí tuệ của con người cũng đã có lúc tỏ ra bất lực trước nhiều vấn đề của đời sống, có những lí giải về đời sống dường như chống lại đời sống. Một thế kỷ đối diện với nghèo đói, bạo lực, ô nhiễm môi trường và cô đơn tập thể trong sự bất khả kháng của con người đang trở thành trạng thái phổ biến của thế giới. Một thế kỷ mà trật tự thế giới luôn phải điều chỉnh trước những biến động chính trị và sự phân cực của các hệ thống quyền lực, nhưng con người vẫn bị lãng quên ngay trong chính những việc mà người ta thực hiện nhân danh lợi ích của con người, lợi ích của quốc gia, dân tộc. Một thế kỷ mà loài người vẫn chưa tìm ra chìa khóa đích thực mở đường cho tiến bộ xã hội, và bản thân đời sống hiện đại, về một phương diện nào đó, vẫn chỉ là sự kéo dài của những giá trị thời Trung cổ, trong hình thức mới của nó mà thôi.
Sau tất cả những biến cố đã xảy ra, bước vào thế kỷ XXI, con người đang ở trong tình thế như thế nào? Con người có thể làm gì trong một thế giới mà đến nỗi đau cũng cũ? Con người có thể làm gì để vượt lên những ngộ nhận và giới hạn nhục nhã do chính con người tạo ra? Những ngộ nhận và giới hạn trong quan hệ giữa các quốc gia, tôn giáo và những cộng đồng người khác nhau, đã hủy hoại công cuộc làm người bình thường nhất. Những ngộ nhận và giới hạn trong các thành tựu khoa học, công nghệ và cách mà con người vận dụng chúng đang gây nên những hậu quả khôn lường ở nhiều lĩnh vực của đời sống. Đến bao giờ thì tiến bộ của khoa học công nghệ có thể song hành với tiến bộ xã hội? Con người có thể hy vọng vào một viễn cảnh khi tiến bộ xã hội và tiến bộ khoa học, công nghệ nắm tay nhau cùng bước? Nhưng trên tất cả, một câu hỏi lớn, liên quan đến vấn đề cốt lõi nhất: Có gì bảo đảm để con người không bị hủy diệt bởi chính con người?
Với cái nhìn bao quát nhất, chúng ta có thể xem lịch sử của loài người là lịch sử của nỗi lo âu, sợ hãi. Thực ra, nỗi lo âu và sự tha hóa là những hiện tượng đi cùng với nhau, cùng tăng lên hoặc giảm đi trong quá trình lịch sử nhân loại. Xã hội loài người phát triển đồng thời với nỗi lo âu mới, sau nỗi lo sợ có nguồn gốc tự nhiên là nỗi lo sợ có nguồn gốc tôn giáo và bây giờ là nỗi lo sợ có nguồn gốc xã hội: Con người đi từ nỗi sợ thiên nhiên, sợ Thượng đế, đến sợ con người! Điều này gắn liền với sự phát triển của con người như thế nào thì chính khoa triết học lịch sử và khoa chính trị kinh tế học mác xít cũng đã hơn một lần chỉ rõ.
Không có gì có thể biện minh cho những tội ác mà con người gây ra cho nhau. Không có gì đáng tự hào khi một quốc gia nào đó hơn người với những vũ khí giết người hàng loạt, thậm chí đang sở hữu vũ khí hạt nhân. Một quốc gia hùng mạnh và văn minh là quốc gia biết quan tâm đến số phận của con người ở trong tự do và số phận của tự do trong con người, đúng như N. A. Berdyaev từng nói. Ông đã nhận xét rất sâu sắc về sáng tác của Dostoyevsky: “Kẻ nào trong cơn tự tung tự tác của mình không biết đến ranh giới tự do của mình, thì kẻ đó sẽ đánh mất tự do, kẻ đó sẽ trở nên cuồng si một "ý tưởng" vốn dĩ sẽ nô dịch anh ta. Raskolnikov là như thế… Raskolnikov ý thức được sự bất lực hoàn toàn của mình, sự ti tiện của mình. Cuộc thử thách những giới hạn tự do và sự hùng mạnh của mình đã dẫn đến kết quả thật kinh hoàng. Raskolnikov đã tiêu diệt bản thân mình cùng với mụ già ti tiện và độc ác… Anh ta đã hiểu ra rằng thật dễ dàng giết chết một con người, rằng cái thí nghiệm ấy không quá khó, nhưng cũng đã hiểu ra rằng điều này chẳng hề đem lại chút sức mạnh nào, rằng điều này làm mất đi sức mạnh tinh thần của con người. Chẳng có gì "vĩ đại", chẳng có gì "phi thường" mang ý nghĩa thế giới đã xảy ra từ sự kiện Raskolnikov giết chết một mụ cho vay nặng lãi, anh ta bị đè bẹp bởi tính chất ti tiện của sự cố đã xảy ra… Dostoevsky đã vạch trần tính chất trá ngụy của những kì vọng làm siêu nhân. Phát hiện ra rằng ý tưởng trá ngụy siêu nhân làm tiêu vong con người… Tất cả những nỗ lực cố vươn tới sự hùng mạnh siêu nhân đều thật ti tiện và thảm hại, chúng đều kết thúc bằng sự sụp đổ của con người, rơi vào sự yếu đuối mất nhân tính.”1 Thế giới đang có bao nhiêu Raskolnikov với tham vọng vươn tới sự hùng mạnh siêu nhân kiểu đó? Nguy hiểm hơn, những Raskolnikov hiện tại có thể thể hiện sức mạnh siêu nhân bằng các nút bấm hạt nhân xách tay, rất nhẹ nhàng nhưng lại có khả năng hủy diệt sự sống của cả hành tinh.
Những nghệ sĩ lớn là những người nhạy cảm trước các vấn đề của tồn tại người. Sau Dostoyevsky, các sáng tác của Franz Kafka đã cho thấy nguyên nhân bị “lưu đày” và tình thế của con người trong thế giới hiện đại: Trong mê cung của những thiết chế quyền lực mờ ám và phi lý, được bày đặt ra như những cái bẫy, con người bị tước mất khả năng tìm hiểu và thiết lập quan hệ với thế giới một cách bình thường; vì con người không phải là chủ nhân, mà là nạn nhân của thế giới. Trong thế giới nghệ thuật của Kafka, đối với cái Tôi, thế giới trở nên xa lạ; đối với thế giới, cái Tôi trở nên xa lạ. Số phận của con người bị kết án là phải chết một cách cô đơn, thê thảm “như con chó”. Thế giới này là một thế giới bi hài, đúng như S. Kierkegaard từng nói. Bi, vì lẽ ra nó phải bị hủy diệt, hài, vì nó vẫn luôn còn đó!
2. Tình thế của thơ
Nếu tư duy tiền hiện đại đã khám phá những mối liên hệ bề mặt có thể cảm nhận được của thế giới thì tư duy hiện đại phát hiện ra rằng những mối liên kết bề mặt không phải do những quy tắc bề mặt cụ thể dẫn dắt, mà là do những hình thức ổn định, ẩn kín; những cấu trúc trừu tượng được xác lập một cách bài bản, chi phối. Tư duy hiện đại muốn nhìn ra phía sau cái bề mặt của sự vật, sự việc. Những phát hiện của Freud cho thấy có cái gì đó sâu lắng, không thể tiếp cận được nhưng lại luôn luôn hoạt động đằng sau ý thức của con người. Đó là cái vô thức không thể cảm nhận và đo đếm. Tư duy thơ hiện đại đã sử dụng một số cặp khái niệm mâu thuẫn rất đặc trưng như cái có thể nói ra và cái không thể nói ra; bí mật và công khai; bản chất và hiện tượng; chính thức và không chính thức; cái ngẫu nhiên chốc lát và sự tất yếu vĩnh hằng…
Như vậy, thơ không thể tiếp cận được bản chất của tồn tại người ở một bình diện duy nhất, bởi vì đời sống không chỉ có một bề mặt với các sự việc xảy ra tiếp nối nhau. Không thể tiếp cận các sự kiện của đời sống bằng quy luật nhân quả hay bằng sự quy chiếu nào đó qua sự mô tả mà chúng ta đã thấy ở hệ hình tư duy nghệ thuật tiền hiện đại, vì đời sống không chỉ có các sự việc xảy ra liên tục, được ẩn giấu nơi bề mặt. Thơ hiện đại luôn phải đối diện với mâu thuẫn giữa cái bên trong và cái bên ngoài; giữa tự do và thực tại; giữa ấn tượng và lí trí; giữa giới hạn và khát vọng. (Bài thơ Phục sinh của Thanh Tâm Tuyền là một ví dụ tiêu biểu thể hiện rất rõ điều này). Nhà thơ hiện đại muốn hiểu và xác lập chính mình thông qua tác phẩm, khám phá những bí ẩn của thế giới trong những bí ẩn của bản thân. Thơ đang ngày càng đi sâu khám phá cái tôi bản thể, khám phá thế giới bên ngoài qua thế giới bên trong cái tôi. Các nhà thơ nhận ra rằng, cần phải để cho tồn tại cá nhân trở thành cái phổ quát. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2020, Ủy ban giải Nobel đã vinh danh nữ thi sĩ người Mỹ, Louise Glück, với những sáng tác mà sự hiện hữu của cá nhân trở thành phổ quát. Vì chỉ như vậy thì thơ mới vượt lên những giới hạn của sự sáng tạo cũ và nói ra được điều gì đó về tình thế của tồn tại người. Bởi vì “Con người không thuộc về một trật tự khách quan, nó không ở trên bề mặt trái đất và trên bề mặt linh hồn của mình. Đời sống tinh thần được trả lại cho con người, nhưng là từ chiều sâu bên trong, đi qua bóng tối, đi qua thanh tẩy và địa ngục”2. Nhà thơ chỉ có thể nói ra một điều gì đó (chữ dùng của Berdyaev), nếu anh ta biết vượt lên những quy tắc thế tục che giấu sự trống rỗng nội tâm. Còn không thì anh ta chỉ nói về một điều gì đó bằng những mô tả, kể lể rì rầm, nhạt nhẽo. Như vậy, việc nói ra điều gì đó, luôn là phẩm chất quyết định sự sâu sắc của một sáng tạo nghệ thuật.
Chúng ta đều biết, văn học nói chung, thơ nói riêng không phát triển theo một tiến trình liên tục, bình yên với sự thay thế của các xu hướng sáng tác có đẳng cấp cao hơn vào vị trí của những xu hướng sáng tác thấp hơn, mà thực chất, đó là quá trình phá vỡ quyền bá chủ của các nguyên tắc và hình thức đã được chấp nhận và quy phạm hóa trong nghệ thuật. Chúng ta không nên chỉ nói về cái mới trong văn học với sự vượt trội của nó trước cái cũ. Cái mới không chỉ là phạm trù mỹ học, nó đồng thời là phạm trù lịch sử, nếu chúng ta ý thức được yếu tố lịch sử nào đã làm cho một hiện tượng văn học lạ trở thành cái mới, cũng như thiết chế văn hóa, xã hội nào đã kìm hãm hay ủng hộ nó. Bản chất của sự đổi mới văn học là sự điều chỉnh những chuẩn mực thẩm mỹ của một cộng đồng sáng tạo và tiếp nhận, thậm chí đó là sự phá vỡ những chuẩn mực thẩm mỹ của nhà văn, vì cái mới luôn là thước đo của chất lượng thẩm mỹ trong sáng tạo nghệ thuật. Và bản chất của chuẩn thẩm mỹ là nó phải bị phá vỡ, bị vượt lên, chính trong sự phá vỡ thường xuyên các chuẩn mực đã có mà văn học có được sức mạnh đổi mới liên tục.
Có một số giá trị được hình thành qua các giai đoạn lịch sử lớn của thơ đến nay đã trở nên bất ổn, muốn thay thế nhau. Và sự thay thế lẫn nhau giữa các giá trị này diễn ra đồng thời với việc xuất hiện những giá trị khác mới hơn. Quá trình này còn tùy thuộc vào thiên hướng và năng lực tiếp nhận của người đọc. Vai trò cá biệt của người tiếp nhận cũng gia tăng lên đáng kể. Người đọc trở thành yếu tố quan trọng của đời sống văn học. “Tất cả mọi tác phẩm, dù được sáng tạo theo thi pháp tất yếu nào cũng mở theo các kiểu đọc, mỗi kiểu đọc mang tới cho tác phẩm một đời sống mới từ một triển vọng nào đó theo thị hiếu cá nhân của người đọc” (Umberto Eco). Người đọc hiện đại một mình thực hiện sự hiểu văn bản văn học, điều mà trước đây một truyền thống cộng đồng hoặc một hệ tư tưởng giai cấp đảm bảo cho nó. Do đó, quá trình các văn bản văn học đi từ tình thế văn hóa - lịch sử này đến tình thế văn hóa - lịch sử khác là quá trình chúng có nghĩa mới, hoàn toàn xa lạ với chủ ý của người sáng tác và công chúng một thời. Không có phương thức nào để chúng ta nhận thức văn bản văn học “như là nó”, do tính không ổn định của văn bản khi được tiếp nhận. Mọi sự hiểu một văn bản nào đó đều là sự sáng tạo, là sự hiểu một cách khác, nó luôn tìm kiếm những khả năng mới để thay đổi văn bản trong khuôn khổ những khả năng đó.
Ngoài ra, có thể thấy từ nửa sau thế kỷ XIX, chức năng xã hội của văn học nghệ thuật đã có những thay đổi. Trong thực tế, quá trình này vẫn đang tiếp diễn. Nhìn từ sự hội nhập đời sống của các loại hình nghệ thuật, chúng ta thấy bên cạnh nhu cầu về thời gian tự do đang ngày một lan rộng ra nhiều thành phần xã hội, có một điều gì đó xảy ra từ bên trong, liên quan đến tinh thần tự giáo dưỡng ngày một gia tăng, thể hiện ngay cả trong các hoạt động giải trí. Thực chất đấy là nhu cầu tự cảm nhận của con người, nó muốn từ bỏ một cách âm thầm những gì nặng nề, đạo mạo, những áp lực công việc căng thẳng, sống chậm lại để có thể cảm nhận và tận hưởng cuộc sống được nhiều hơn. Đây là sự tìm kiếm một loại ấn tượng mới trong cảm thụ nghệ thuật nói chung. Chính vì thế, chưa bao giờ trên thế giới có một sự phân hóa sâu sắc giữa các tầng lớp trong xã hội trước các giá trị văn học như hiện nay, với các nhóm độc giả có thị hiếu thẩm mỹ khác nhau, lựa chọn và tiếp nhận các tác phẩm văn học cũng khác nhau. Chúng ta nên để cho mọi khuynh hướng sáng tác được thể hiện, cũng như cần chấp nhận sự xuất hiện của các nhóm độc giả với những nhu cầu về văn học nghệ thuật khác nhau. Các nhà thơ cần làm quen với thực tế là mỗi nhà thơ có một cộng đồng diễn giải riêng. Nhà thơ không lựa chọn được người đọc, mà người đọc lựa chọn nhà thơ.
Trở lên là những gì liên quan đến các thử thách và giới hạn mà thơ phải đối mặt trước tình thế của con người. Trong một thế giới đang được vận hành bởi sức mạnh của lợi ích với cơ chế thị trường và những tham vọng kinh tế ngắn và dài hạn, thơ không thể mang lại thu hoạch gì, có thể cầm nắm hoặc quy đổi.
Đơn giản chỉ vì thơ là thơ.
Xin miễn cho thơ sự thần thánh hóa, cấp cho nó những chức năng nhiệm vụ cao cả đến mức nó không thể và không bao giờ thực hiện được, để lôi kéo thơ vào mục đích xa lạ, làm sơ lược hóa thơ và sơ lược hóa con người.
Hãy cho thơ được cất tiếng nói về tồn tại người, theo cách của thơ. Nhà thơ Octavio Paz, Giải Nobel Văn học năm 1990, đã nói: “Mọi thi sĩ trong những khoảnh khắc thơ, dù dài dù ngắn, nếu thực là thi sĩ, đều nghe tiếng nói khác. Nó là tiếng của chính họ, của một người nào khác, của chẳng ai khác, chẳng của ai cả, và của tất cả mọi người… Chừng nào còn con người, chừng đó còn thi ca. Tương quan này, tuy nhiên, có thể bị phá vỡ. Sinh ra bằng trí tưởng tượng của con người, thơ có thể chết nếu trí tưởng tượng chết hoặc đồi truỵ. Nếu con người quên thơ, họ sẽ quên chính mình. Và sẽ trở về sự hỗn mang nguyên thủy.”3
Hà Nội, 10/2022
T.Đ.D
(TCSH410/04-2023)
------------------------
1 N. A. Berdyaev: Thế giới quan của Dostoevsky (Nguyễn Văn Trọng dịch, giới thiệu, chú giải, Nxb. Tri Thức Hà Nội, 2017, tr.154, 157 và 158).
2 N. A. Berdyaev: Thế giới quan của Dostoevsky (Nguyễn Văn Trọng dịch, giới thiệu, chú giải, Nxb. Tri Thức Hà Nội, 2017, tr. 80).
3 Octavio Paz, Thơ văn và tiểu luận (Nguyễn Trung Đức chọn dịch, Nxb. Đà Nẵng, 1977, tr. 266, tr. 274)
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.