Tình thế của con người - tình thế của thơ

14:42 22/05/2023


TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

Nhà thơ Trương Đăng Dung bên mộ nhà thơ Hungary Holló András - Ảnh: tư liệu

… Thế giới vẫn không ngừng tiếng súng
đạn bắn vào con người trong chiến tranh
đạn bắn vào con người trong hòa bình
lớp lớp xương người làm cốt sắt
bê tông trái đất nặng nề quay.

Không có gì mới đâu, thi sĩ
mỗi ngày sống là một ngày thất vọng
từ Tây sang Đông
người sợ con người.

Hai mươi bốn năm rồi thêm một lần khóc bạn
giữa Châu Âu bất an
tôi ngửa mặt nhìn trời.

                        (Bên mộ một nhà thơ)
                                    Hungary, 17/08/2016

 

1. Tình thế của con người

Những câu thơ trên đây trích từ bài thơ Bên mộ một nhà thơ tôi viết cách đây sáu năm, in trong tập Em là nơi anh tị nạn vừa mới xuất bản. Tôi muốn bắt đầu bản tham luận bằng những câu thơ đó thay cho lời dẫn nhập.

Thế kỷ XX đã khép lại hơn hai thập niên. Một thế kỷ mà trí tuệ của con người cũng đã có lúc tỏ ra bất lực trước nhiều vấn đề của đời sống, có những lí giải về đời sống dường như chống lại đời sống. Một thế kỷ đối diện với nghèo đói, bạo lực, ô nhiễm môi trường và cô đơn tập thể trong sự bất khả kháng của con người đang trở thành trạng thái phổ biến của thế giới. Một thế kỷ mà trật tự thế giới luôn phải điều chỉnh trước những biến động chính trị và sự phân cực của các hệ thống quyền lực, nhưng con người vẫn bị lãng quên ngay trong chính những việc mà người ta thực hiện nhân danh lợi ích của con người, lợi ích của quốc gia, dân tộc. Một thế kỷ mà loài người vẫn chưa tìm ra chìa khóa đích thực mở đường cho tiến bộ xã hội, và bản thân đời sống hiện đại, về một phương diện nào đó, vẫn chỉ là sự kéo dài của những giá trị thời Trung cổ, trong hình thức mới của nó mà thôi.

Sau tất cả những biến cố đã xảy ra, bước vào thế kỷ XXI, con người đang ở trong tình thế như thế nào? Con người có thể làm gì trong một thế giới mà đến nỗi đau cũng cũ? Con người có thể làm gì để vượt lên những ngộ nhận và giới hạn nhục nhã do chính con người tạo ra? Những ngộ nhận và giới hạn trong quan hệ giữa các quốc gia, tôn giáo và những cộng đồng người khác nhau, đã hủy hoại công cuộc làm người bình thường nhất. Những ngộ nhận và giới hạn trong các thành tựu khoa học, công nghệ và cách mà con người vận dụng chúng đang gây nên những hậu quả khôn lường ở nhiều lĩnh vực của đời sống. Đến bao giờ thì tiến bộ của khoa học công nghệ có thể song hành với tiến bộ xã hội? Con người có thể hy vọng vào một viễn cảnh khi tiến bộ xã hội và tiến bộ khoa học, công nghệ nắm tay nhau cùng bước? Nhưng trên tất cả, một câu hỏi lớn, liên quan đến vấn đề cốt lõi nhất: Có gì bảo đảm để con người không bị hủy diệt bởi chính con người?

Với cái nhìn bao quát nhất, chúng ta có thể xem lịch sử của loài người là lịch sử của nỗi lo âu, sợ hãi. Thực ra, nỗi lo âu và sự tha hóa là những hiện tượng đi cùng với nhau, cùng tăng lên hoặc giảm đi trong quá trình lịch sử nhân loại. Xã hội loài người phát triển đồng thời với nỗi lo âu mới, sau nỗi lo sợ có nguồn gốc tự nhiên là nỗi lo sợ có nguồn gốc tôn giáo và bây giờ là nỗi lo sợ có nguồn gốc xã hội: Con người đi từ nỗi sợ thiên nhiên, sợ Thượng đế, đến sợ con người! Điều này gắn liền với sự phát triển của con người như thế nào thì chính khoa triết học lịch sử và khoa chính trị kinh tế học mác xít cũng đã hơn một lần chỉ rõ.

Không có gì có thể biện minh cho những tội ác mà con người gây ra cho nhau. Không có gì đáng tự hào khi một quốc gia nào đó hơn người với những vũ khí giết người hàng loạt, thậm chí đang sở hữu vũ khí hạt nhân. Một quốc gia hùng mạnh và văn minh là quốc gia biết quan tâm đến số phận của con người ở trong tự do và số phận của tự do trong con người, đúng như N. A. Berdyaev từng nói. Ông đã nhận xét rất sâu sắc về sáng tác của Dostoyevsky: “Kẻ nào trong cơn tự tung tự tác của mình không biết đến ranh giới tự do của mình, thì kẻ đó sẽ đánh mất tự do, kẻ đó sẽ trở nên cuồng si một "ý tưởng" vốn dĩ sẽ nô dịch anh ta. Raskolnikov là như thế… Raskolnikov ý thức được sự bất lực hoàn toàn của mình, sự ti tiện của mình. Cuộc thử thách những giới hạn tự do và sự hùng mạnh của mình đã dẫn đến kết quả thật kinh hoàng. Raskolnikov đã tiêu diệt bản thân mình cùng với mụ già ti tiện và độc ác… Anh ta đã hiểu ra rằng thật dễ dàng giết chết một con người, rằng cái thí nghiệm ấy không quá khó, nhưng cũng đã hiểu ra rằng điều này chẳng hề đem lại chút sức mạnh nào, rằng điều này làm mất đi sức mạnh tinh thần của con người. Chẳng có gì "vĩ đại", chẳng có gì "phi thường" mang ý nghĩa thế giới đã xảy ra từ sự kiện Raskolnikov giết chết một mụ cho vay nặng lãi, anh ta bị đè bẹp bởi tính chất ti tiện của sự cố đã xảy ra… Dostoevsky đã vạch trần tính chất trá ngụy của những kì vọng làm siêu nhân. Phát hiện ra rằng ý tưởng trá ngụy siêu nhân làm tiêu vong con người… Tất cả những nỗ lực cố vươn tới sự hùng mạnh siêu nhân đều thật ti tiện và thảm hại, chúng đều kết thúc bằng sự sụp đổ của con người, rơi vào sự yếu đuối mất nhân tính.”1 Thế giới đang có bao nhiêu Raskolnikov với tham vọng vươn tới sự hùng mạnh siêu nhân kiểu đó? Nguy hiểm hơn, những Raskolnikov hiện tại có thể thể hiện sức mạnh siêu nhân bằng các nút bấm hạt nhân xách tay, rất nhẹ nhàng nhưng lại có khả năng hủy diệt sự sống của cả hành tinh.

Những nghệ sĩ lớn là những người nhạy cảm trước các vấn đề của tồn tại người. Sau Dostoyevsky, các sáng tác của Franz Kafka đã cho thấy nguyên nhân bị “lưu đày” và tình thế của con người trong thế giới hiện đại: Trong mê cung của những thiết chế quyền lực mờ ám và phi lý, được bày đặt ra như những cái bẫy, con người bị tước mất khả năng tìm hiểu và thiết lập quan hệ với thế giới một cách bình thường; vì con người không phải là chủ nhân, mà là nạn nhân của thế giới. Trong thế giới nghệ thuật của Kafka, đối với cái Tôi, thế giới trở nên xa lạ; đối với thế giới, cái Tôi trở nên xa lạ. Số phận của con người bị kết án là phải chết một cách cô đơn, thê thảm “như con chó”. Thế giới này là một thế giới bi hài, đúng như S. Kierkegaard từng nói. Bi, vì lẽ ra nó phải bị hủy diệt, hài, vì nó vẫn luôn còn đó!

2. Tình thế của thơ

Nếu tư duy tiền hiện đại đã khám phá những mối liên hệ bề mặt có thể cảm nhận được của thế giới thì tư duy hiện đại phát hiện ra rằng những mối liên kết bề mặt không phải do những quy tắc bề mặt cụ thể dẫn dắt, mà là do những hình thức ổn định, ẩn kín; những cấu trúc trừu tượng được xác lập một cách bài bản, chi phối. Tư duy hiện đại muốn nhìn ra phía sau cái bề mặt của sự vật, sự việc. Những phát hiện của Freud cho thấy có cái gì đó sâu lắng, không thể tiếp cận được nhưng lại luôn luôn hoạt động đằng sau ý thức của con người. Đó là cái vô thức không thể cảm nhận và đo đếm. Tư duy thơ hiện đại đã sử dụng một số cặp khái niệm mâu thuẫn rất đặc trưng như cái có thể nói ra và cái không thể nói ra; bí mật và công khai; bản chất và hiện tượng; chính thức và không chính thức; cái ngẫu nhiên chốc lát và sự tất yếu vĩnh hằng…

Như vậy, thơ không thể tiếp cận được bản chất của tồn tại người ở một bình diện duy nhất, bởi vì đời sống không chỉ có một bề mặt với các sự việc xảy ra tiếp nối nhau. Không thể tiếp cận các sự kiện của đời sống bằng quy luật nhân quả hay bằng sự quy chiếu nào đó qua sự mô tả mà chúng ta đã thấy ở hệ hình tư duy nghệ thuật tiền hiện đại, vì đời sống không chỉ có các sự việc xảy ra liên tục, được ẩn giấu nơi bề mặt. Thơ hiện đại luôn phải đối diện với mâu thuẫn giữa cái bên trong và cái bên ngoài; giữa tự do và thực tại; giữa ấn tượng và lí trí; giữa giới hạn và khát vọng. (Bài thơ Phục sinh của Thanh Tâm Tuyền là một ví dụ tiêu biểu thể hiện rất rõ điều này). Nhà thơ hiện đại muốn hiểu và xác lập chính mình thông qua tác phẩm, khám phá những bí ẩn của thế giới trong những bí ẩn của bản thân. Thơ đang ngày càng đi sâu khám phá cái tôi bản thể, khám phá thế giới bên ngoài qua thế giới bên trong cái tôi. Các nhà thơ nhận ra rằng, cần phải để cho tồn tại cá nhân trở thành cái phổ quát. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2020, Ủy ban giải Nobel đã vinh danh nữ thi sĩ người Mỹ, Louise Glück, với những sáng tác mà sự hiện hữu của cá nhân trở thành phổ quát. Vì chỉ như vậy thì thơ mới vượt lên những giới hạn của sự sáng tạo cũ và nói ra được điều gì đó về tình thế của tồn tại người. Bởi vì “Con người không thuộc về một trật tự khách quan, nó không ở trên bề mặt trái đất và trên bề mặt linh hồn của mình. Đời sống tinh thần được trả lại cho con người, nhưng là từ chiều sâu bên trong, đi qua bóng tối, đi qua thanh tẩy và địa ngục”2. Nhà thơ chỉ có thể nói ra một điều gì đó (chữ dùng của Berdyaev), nếu anh ta biết vượt lên những quy tắc thế tục che giấu sự trống rỗng nội tâm. Còn không thì anh ta chỉ nói về một điều gì đó bằng những mô tả, kể lể rì rầm, nhạt nhẽo. Như vậy, việc nói ra điều gì đó, luôn là phẩm chất quyết định sự sâu sắc của một sáng tạo nghệ thuật.

Chúng ta đều biết, văn học nói chung, thơ nói riêng không phát triển theo một tiến trình liên tục, bình yên với sự thay thế của các xu hướng sáng tác có đẳng cấp cao hơn vào vị trí của những xu hướng sáng tác thấp hơn, mà thực chất, đó là quá trình phá vỡ quyền bá chủ của các nguyên tắc và hình thức đã được chấp nhận và quy phạm hóa trong nghệ thuật. Chúng ta không nên chỉ nói về cái mới trong văn học với sự vượt trội của nó trước cái cũ. Cái mới không chỉ là phạm trù mỹ học, nó đồng thời là phạm trù lịch sử, nếu chúng ta ý thức được yếu tố lịch sử nào đã làm cho một hiện tượng văn học lạ trở thành cái mới, cũng như thiết chế văn hóa, xã hội nào đã kìm hãm hay ủng hộ nó. Bản chất của sự đổi mới văn học là sự điều chỉnh những chuẩn mực thẩm mỹ của một cộng đồng sáng tạo và tiếp nhận, thậm chí đó là sự phá vỡ những chuẩn mực thẩm mỹ của nhà văn, vì cái mới luôn là thước đo của chất lượng thẩm mỹ trong sáng tạo nghệ thuật. Và bản chất của chuẩn thẩm mỹ là nó phải bị phá vỡ, bị vượt lên, chính trong sự phá vỡ thường xuyên các chuẩn mực đã có mà văn học có được sức mạnh đổi mới liên tục.

Có một số giá trị được hình thành qua các giai đoạn lịch sử lớn của thơ đến nay đã trở nên bất ổn, muốn thay thế nhau. Và sự thay thế lẫn nhau giữa các giá trị này diễn ra đồng thời với việc xuất hiện những giá trị khác mới hơn. Quá trình này còn tùy thuộc vào thiên hướng và năng lực tiếp nhận của người đọc. Vai trò cá biệt của người tiếp nhận cũng gia tăng lên đáng kể. Người đọc trở thành yếu tố quan trọng của đời sống văn học. “Tất cả mọi tác phẩm, dù được sáng tạo theo thi pháp tất yếu nào cũng mở theo các kiểu đọc, mỗi kiểu đọc mang tới cho tác phẩm một đời sống mới từ một triển vọng nào đó theo thị hiếu cá nhân của người đọc” (Umberto Eco). Người đọc hiện đại một mình thực hiện sự hiểu văn bản văn học, điều mà trước đây một truyền thống cộng đồng hoặc một hệ tư tưởng giai cấp đảm bảo cho nó. Do đó, quá trình các văn bản văn học đi từ tình thế văn hóa - lịch sử này đến tình thế văn hóa - lịch sử khác là quá trình chúng có nghĩa mới, hoàn toàn xa lạ với chủ ý của người sáng tác và công chúng một thời. Không có phương thức nào để chúng ta nhận thức văn bản văn học “như là nó”, do tính không ổn định của văn bản khi được tiếp nhận. Mọi sự hiểu một văn bản nào đó đều là sự sáng tạo, là sự hiểu một cách khác, nó luôn tìm kiếm những khả năng mới để thay đổi văn bản trong khuôn khổ những khả năng đó.

Ngoài ra, có thể thấy từ nửa sau thế kỷ XIX, chức năng xã hội của văn học nghệ thuật đã có những thay đổi. Trong thực tế, quá trình này vẫn đang tiếp diễn. Nhìn từ sự hội nhập đời sống của các loại hình nghệ thuật, chúng ta thấy bên cạnh nhu cầu về thời gian tự do đang ngày một lan rộng ra nhiều thành phần xã hội, có một điều gì đó xảy ra từ bên trong, liên quan đến tinh thần tự giáo dưỡng ngày một gia tăng, thể hiện ngay cả trong các hoạt động giải trí. Thực chất đấy là nhu cầu tự cảm nhận của con người, nó muốn từ bỏ một cách âm thầm những gì nặng nề, đạo mạo, những áp lực công việc căng thẳng, sống chậm lại để có thể cảm nhận và tận hưởng cuộc sống được nhiều hơn. Đây là sự tìm kiếm một loại ấn tượng mới trong cảm thụ nghệ thuật nói chung. Chính vì thế, chưa bao giờ trên thế giới có một sự phân hóa sâu sắc giữa các tầng lớp trong xã hội trước các giá trị văn học như hiện nay, với các nhóm độc giả có thị hiếu thẩm mỹ khác nhau, lựa chọn và tiếp nhận các tác phẩm văn học cũng khác nhau. Chúng ta nên để cho mọi khuynh hướng sáng tác được thể hiện, cũng như cần chấp nhận sự xuất hiện của các nhóm độc giả với những nhu cầu về văn học nghệ thuật khác nhau. Các nhà thơ cần làm quen với thực tế là mỗi nhà thơ có một cộng đồng diễn giải riêng. Nhà thơ không lựa chọn được người đọc, mà người đọc lựa chọn nhà thơ.

Trở lên là những gì liên quan đến các thử thách và giới hạn mà thơ phải đối mặt trước tình thế của con người. Trong một thế giới đang được vận hành bởi sức mạnh của lợi ích với cơ chế thị trường và những tham vọng kinh tế ngắn và dài hạn, thơ không thể mang lại thu hoạch gì, có thể cầm nắm hoặc quy đổi.

Đơn giản chỉ vì thơ là thơ.

Xin miễn cho thơ sự thần thánh hóa, cấp cho nó những chức năng nhiệm vụ cao cả đến mức nó không thể và không bao giờ thực hiện được, để lôi kéo thơ vào mục đích xa lạ, làm sơ lược hóa thơ và sơ lược hóa con người.

Hãy cho thơ được cất tiếng nói về tồn tại người, theo cách của thơ. Nhà thơ Octavio Paz, Giải Nobel Văn học năm 1990, đã nói: “Mọi thi sĩ trong những khoảnh khắc thơ, dù dài dù ngắn, nếu thực là thi sĩ, đều nghe tiếng nói khác. Nó là tiếng của chính họ, của một người nào khác, của chẳng ai khác, chẳng của ai cả, và của tất cả mọi người… Chừng nào còn con người, chừng đó còn thi ca. Tương quan này, tuy nhiên, có thể bị phá vỡ. Sinh ra bằng trí tưởng tượng của con người, thơ có thể chết nếu trí tưởng tượng chết hoặc đồi truỵ. Nếu con người quên thơ, họ sẽ quên chính mình. Và sẽ trở về sự hỗn mang nguyên thủy.3

Hà Nội, 10/2022
T.Đ.D
(TCSH410/04-2023)

------------------------
1 N. A. Berdyaev: Thế giới quan của Dostoevsky (Nguyễn Văn Trọng dịch, giới thiệu, chú giải, Nxb. Tri Thức Hà Nội, 2017, tr.154, 157 và 158).
2 N. A. Berdyaev: Thế giới quan của Dostoevsky (Nguyễn Văn Trọng dịch, giới thiệu, chú giải, Nxb. Tri Thức Hà Nội, 2017, tr. 80).
3 Octavio Paz, Thơ văn và tiểu luận (Nguyễn Trung Đức chọn dịch, Nxb. Đà Nẵng, 1977, tr. 266, tr. 274)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.