TRƯƠNG ĐÌNH PHƯỢNG
Ảnh: internet
Tiểu khúc cho những ngày tàn mộng
1.
nếu một ngày tôi ngủ, xin bạn
đừng đánh thức tôi dậy, bằng mọi cách
tôi ở đó, bên kia ngọn đồi, nghĩa địa của nỗi đau
nếu một ngày tôi ngủ, vĩnh viễn
đừng đánh thức tôi dậy, xin bạn
cuối thung lũng tình yêu, tôi ở đó
nếu một ngày tôi ngủ, lãng quên
xin bạn, đừng đánh thức tôi dậy
dưới dòng sông cô đơn, tôi ở đó
2.
tôi sẽ cài lên thơ một nụ hôn
trước khi trời sáng
giọt sương khuya sẽ tẩm ướp linh hồn
tôi sẽ cài lên mắt đêm một nỗi nhớ
trước khi trời sáng
mái tóc người sẽ tẩm ướp linh hồn
tôi sẽ cài lên môi khuya một ánh mắt
trước khi trời sáng
những con đóm trong nghĩa trang sẽ tẩm ướp linh hồn
3.
ngày giòn tan hương nắng
em bước qua khu vườn trồng đầy loài hoa tử đằng
dưới gốc cây Chán Nản
tôi nằm đó đếm xác những vì sao
vừa được bốc mộ
con kiến cánh trở về hỏi thăm đường biên của sợi tóc
người viễn trình ngang đôi mắt thiếu chân trời
những tiếng sấm trở về trong chiếc máng lặng im
mỏm đồi nhục cảm thêm một lần đổi thay sắc tố
ngày bơ vơ như ngực trẻ
em trở về ngang qua khu vườn chất đầy xác loài hoa tử đằng.
4.
chẳng cần ai phân tích những cô đơn
ngày trôi qua tôi những hình hài hư ảo
những dự cảm tiếc nuối
níu vào bình minh, hạ sinh những mặt trời tấy đỏ
chẳng cần ai phân chiết những âu lo
ngày trôi qua tôi những hình hài xơ xác
những dự cảm lẻ loi
níu vào vai gió, hạ sinh những con đường dị tật
5.
Đừng đánh thức tôi dậy, bằng mọi cách
Người biết đấy, ngày xanh đã từ trần
Như chỉ còn những cánh đồng, những con sâu trở về viên tịch
Tàn vong của ước mơ, hóa thân vào đất lạnh
Như chỉ còn những trận bão, điên cuồng
Trên ngọn tháp suy tư, những nhãn tuyến vong tình
Chẳng còn, người biết đấy, những đôi tình nhân tử nạn vì yêu
Chỉ còn những ngã tư ngủ vùi trong chiếc chăn hoen mốc
Thời gian ngậm đầy cuống họng, những hình hài mưng mủ
Trong không gian ngập tràn máu thảm
Những con chim khát vọng ngừng bay.
(TCSH371/01-2020)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi