Thơ xuân đọc với nam hà

08:33 11/03/2011
PHAN DUY NHÂNThơ xuân đọc với nam hà

Nhà thơ Phan Duy Nhân - Ảnh: internet

Anh hết hoa đào bay ngựa trạm
Đành thôi mơ dấu Ngọc Hân xưa!
Dẫu cam bẻ nốt cành xuân muộn
Chẳng đủ mừng nhau giữa gió mưa

Thôi lắng thời gian hãy lặng lòng
Cũng đừng xao động nữa Hồ Gươm!
Hương sen thơm tới nghìn sau được
Em với thơ còn vượt tháng năm…

Chưa hứa gì ư? Hẹn, cứ về!
Dịu trời há chẳng chút mây che?
Chỉ thương sương nhuốm đầy chân mạ
Đường đất đau hằn những vết xe

Nhịp bước đều như giọt máu thầm
Rỏ từ hồn xuống tím chiều hôm
Thương quê da diết tìm quê vậy
Em có đâu mà đến hỏi thăm!

Thôi cúi hôn lên ngọn cỏ mềm
Sân nhà bờ giậu nghẹn ngào em
Nắm tay ai cũng bà con nhỉ
Xin bớt vơi đầy giữa trái tim…

Thầy Mẹ quê chèo đêm hội cũ
Mài sơn chưa bóng mặt đồng chiêm
Bức tranh đời vẽ bao sông nước
U uẩn hoa văn chạnh nỗi niềm

Em có bao giờ không ngọt nữa
Ơi cam đầu ngõ mía trong vườn?
Quay lui chao cả chân trời vẫy
Làng xóm xa nhòe nắng cuối đông…

Như kẻ hành hương vừa rũ bụi
Ơn nhau trong sáng trái tim đầy
Thêm bao bờ bến còn đưa tiễn
Vẫn chỉ em hồng một cánh tay!

Mai hẳn phương Nam mầu pháo đượm
Xôn xao chiều xuống phố lên đèn…
Tiếc chưa trải nổi lòng như thảm
Để được nâng dìu mỗi bước em

Xa hút hoa đào bay ngựa chiến
Chiều Hoa Lư nối sớm Lam Sơn!
Hà Nam Ninh nhé, mừng xuân mới
Thơm nụ hồng em mỗi dặm đường…


Hà Nội - Thanh Hóa
Ngày 1-1-1985
(12/4-85)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang

  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.