Thơ Văn Công Hùng, nhìn từ hình tượng cái tôi trữ tình chiêm nghiệm - triết lý

14:48 17/09/2012

TRẦN THỊ VÂN DUNG

Đứng trước mỗi cuộc đời, mỗi con người có những trải nghiệm khác nhau, cách chia sẻ khác nhau. Mỗi nhà thơ là một cái tôi nội cảm, hòa nhập vào thế giới xung quanh, phân thân thành những trạng thái khác nhau để thể hiện mọi cảm xúc.

Nhà thơ Văn Công Hùng - Ảnh: internet

M.B. Kahrapchenko đã khẳng định rằng: “Sức mạnh của sự sắc bén của cách nhìn thế giới của anh ta chính là khả năng nắm bắt, khám phá những quá trình bên trong của cuộc sống, miêu tả những tính cách và những điển hình mô tả từ một phương diện mới hoạt động của con người, tâm lý của con người. Cái nhìn của nhà văn càng tỉnh bao nhiêu thì anh ta càng thâm nhập sâu vào thực chất của sự vật, những khái quát nghệ thuật của anh ta, những khám phá sáng tạo của anh ta càng lớn bấy nhiêu”.

Quá trình sáng tác là quá trình nhà thơ gom nhặt những chất liệu cuộc sống, dồn nén nó trong đáy sâu tâm hồn mình và thăng hoa trong từng cảm xúc, viết lên thành câu chữ. Đó là hành trình người nghệ sỹ quan sát hiện thực bằng cảm quan của mình, qua thời gian chiêm nghiệm, tinh lọc mà thành những bài thơ là “hơi thở của đời sống, tiếng nói của tri âm. Và vì vậy, hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Văn Công Hùng là hành trình chiêm nghiệm - triết lý của một cái tôi đã khắc họa trong mình tâm thế chung của con người đương đại trước thời gian, con người và cuộc sống:

“Ngày thì qua mà đêm ở lại”
(Nước mắt đêm, tập thơ Đêm không màu)

Và:

“Rượu sẽ hết và đời rồi cũng chết
Nhưng tình thì mãi mãi không phai”
(Thơ trong chiếu rượu, tập thơ Bến đợi)

Bằng cái tôi chiêm nghiệm - triết lý, Văn Công Hùng độc thoại với chính mình và hướng đến giãi bày với người đọc một cách nhẹ nhàng mà sâu lắng:

“Không phải cứ bên nhau là xa cách
Nhiều khi chưa gặp đã quen rồi”
(Cao nguyên ngày tôi tới, tập thơ Đêm không màu)

Từ những chi tiết bộn bề, những sự kiện tiếp nối diễn ra trong cuộc sống, bằng những cảm xúc suy tư, tác giả đã tạo ra những hình ảnh mang nhiều ý nghĩa ẩn chứa trong nó. Đó chính là cuộc sống với bao cung bậc tinh tế, vi diệu được chuyển tải trong thơ qua lăng kính của nhà thơ:

“Đoạn cuối của ngày như một giấc mơ
Em dành phần đánh thức cơn mơ cho loài đà điểu
Những hạt cát không biết đến sự hiện diện của mùa xuân
Như vô tư ngủ
Nhưng mà nào có được vô tâm
Cát trằn mình sinh nở
Nụ xương rồng muôn muốt nhú hoàng hôn”
(Phần cuối của ngày, tập thơ Gõ chiều vào bàn phím)

Và đúc kết thành những triết lý có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện một sự nhạy bén trong tầm nhìn, khả năng phát hiện, khái quát mạnh mẽ hình tượng thơ:

“Không thể hết những muộn phiền
Không thể hết những nỗi đau
Không thể sung sướng đến tận cùng
Nước mắt đến tận cùng”
(Và gió, tập thơ Hoa tường vi trong mưa)

Trong thơ Văn Công Hùng, cái tôi trữ tình còn là những trải nghiệm xót xa trước nhân tình thế thái. Nó mang dáng dấp của nỗi niềm riêng và tâm sự chung. Nhà thơ đã quan sát và suy ngẫm để tìm ra quy luật giữa các sự vật, hiện tượng, đem lại cho người đọc một cái nhìn cảm thông, chia sẻ:

“Níu kéo một đời tan vỡ một giây
Mà chớp mắt đã trở thành xa lạ”
(Quá khứ, tập thơ Hát rong)

Và trong bài thơ Vợ, tập thơ Hoa tường vi trong mưa:

“Nhân gian tưởng rộng nhường kia mà té ra nhỏ hẹp
Đi hoài vẫn có tiểu nhân”

Hay:

“Đời là một thoáng bông lau
Gió mạnh thì nát gió nhàu thì xơ”
(Thả gió vào chùa, tập thơ Lục bát Văn Công Hùng)

Thơ Văn Công Hùng được viết sau chiến tranh, nhưng không vì thế mà trở nên sáo rỗng, tẻ nhạt với đề tài này. Bởi, cuộc chiến tranh đã qua đi nhưng dư âm của nó còn đọng lại và ám ảnh bao người. Là một nhà thơ nhưng đồng thời anh cũng là một nhà báo đi nhiều, hiểu rộng. Những tàn tích sau chiến tranh còn để lại trên những số phận con người, trên những vùng đất của Tổ quốc. Để lại trong anh bàng bạc những suy tư, khiến trái tim anh phải thốt lên những câu thơ nhức buốt:

“Cuộc chiến tranh đã qua lâu rồi
Gai thép nhọn vẫn đâm vào hiện tại”
(Một nửa bông hồng, tập thơ Bến đợi)

Với một tâm hồn nhạy cảm và sự trải nghiệm, Văn Công Hùng đã giúp người đọc nhìn nhận và soi mình qua những triết lý nhân sinh, để sống có ý nghĩa và đẹp hơn cho đời:

“Tình yêu em ơi
Suốt đời như thể
Giọt nước mắt trong ngần kết tinh giữa đại dương”
(Nơi em về, tập thơ Bến đợi)

Có lúc, anh nhìn cuộc sống trong sự vận động như một quá trình để đi sâu khám phá bản chất của sự vật, hiện tượng. Thông qua cái tôi bản thể, nhà thơ nói lên quy luật của cuộc đời con người từ lúc sinh ra, lớn lên và mất đi. Đồng thời, thể hiện khát vọng của con người được trường tồn với thời gian, trường tồn với cuộc sống:

“Trong bóng đêm tôi nhìn thấy mặt mình
Lang thang và ngơ ngác
Mặt của tôi được sinh ra lần nữa
Lăn trong giấc mơ”
(Trong bóng đêm, tập thơ Đêm không màu)

Nhưng rồi, vẫn là những sự thật hiển nhiên như quy luật muôn đời của tạo hóa, tuổi thơ và thời gian qua đi không bao giờ quay trở lại. Con người vẫn phải đối mặt với sự già nua của mình qua từng khắc thời gian. Ước mong là vô hạn nhưng nhà thơ vẫn tỉnh táo và lý trí để nhắc mình, nhắc người về những hữu hạn của đời người, cuộc sống. Để từ đó, con người tự xác định cho mình một cách sống, thái độ sống có ý nghĩa. Đó chính là những phát hiện mới lạ mà Văn Công Hùng đã dày công sáng tạo, đem lại cho người đọc một hiệu ứng thẩm mỹ giàu chất thơ:

“Con thuyền lầm lũi sang sông
Chở tuổi thơ về quá khứ
Mang thời gian đi vô tận
Còn ta ở lại bên này”
(Sông cô đơn đến bây giờ, tập thơ Gõ chiều vào bàn phím)

Nói đến chất trí tuệ và triết lý trong thơ là nói đến “Sức mạnh của lý trí trong nhận thức của nghệ thuật thi ca, đến năng lực khái quát hóa, đến tầm cao và chiều sâu của tư tưởng, đến ý nghĩa triết học của vấn đề(1). Triết lý, khái quát là một trong những yếu tố đánh giá khả năng nắm bắt và truyền tải hiện thực vào trong thơ của tác giả. Đồng thời thể hiện vốn sống, vốn hiểu biết sâu rộng thông qua thế giới nghệ thuật của nhà thơ. Mặt khác “Tính triết lý là một phương diện cần có để làm giàu nhận thức, liên tưởng và suy tưởng của con người”(Hồ Thế Hà).

Với Văn Công Hùng, hành trình sáng tạo của cái tôi trữ tình đầy chiêm nghiệm - triết lý của anh dù chỉ là “ta ngồi chơi cuộc tình cờ” nhưng “nhặt lên” đã “một trĩu nặng bờ nhân gian. Nhà thơ nhận ra đời cũng chính là cuộc sống với nhiều bất ngờ xáo trộn:

“Thì ra cuộc đời
Không thôi xáo trộn
Tưởng gặp niềm vui
Nỗi buồn lại tới
Và khi không đợi
Niềm vui lại về”
(Không đề, tập thơ Gõ chiều vào bàn phím)

Nhà thơ - nhà lý luận phê bình Hồ Thế Hà đã có một nhận xét khái quát rằng: “Đề cao triết lý và tạo ra kiểu tư duy triết lý trong thơ là sự nỗ lực của mọi nhà thơ để nâng cao hiệu quả thơ. Với Văn Công Hùng “cái tôi chiêm nghiệm - triết lý” trong thơ anh đa dạng, không dễ nắm bắt. Ở hình tượng câu thơ nào, anh cũng đưa ra cách thể hiện và lý giải của riêng mình một cách độc đáo. Bởi trong con người anh chứa đựng một vốn sống phong phú. Đi sâu vào đối tượng bên trong để khám phá và giải mã bản chất của mỗi vấn đề, sự vật, hiện tượng, Văn Công Hùng đã tạo cho mình một bước chuyển về thi pháp, đưa thơ đến chất giọng chiêm nghiệm đầy triết lý.

Từ các dạng thức của cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật thơ Văn Công Hùng, cái bề sâu trong thơ anh qua chiêm nghiệm - triết lý của chủ thể trữ tình là những giá trị, những tư tưởng khái quát được “hình tượng hóa” từ hiện thực qua sáng tạo nghệ thuật. Nhìn cuộc sống bằng con mắt biện chứng trong sự vận động như một quá trình để đi sâu khám phá, phát hiện và giải mã cái tinh tế bên trong của sự vật, hiện tượng qua sự trải nghiệm, nhà thơ đã thể hiện rõ nét một tư duy nghệ thuật sâu sắc và tinh tế. Biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Văn Công Hùng là “sự kết tinh thành những hạt thi ca lấp lánh lời giải đáp về những điều lớn lao và vi diệu của cuộc sống và của chính cõi lòng thi nhân”.

Trong thơ Văn Công Hùng cái tôi trữ tình chiêm nghiệm - triết lý, thể hiện “cái nhìn bao quát của người nghệ sỹ đối với thế giới vốn được hình thành trong quá trình thực tế của cuộc sống, trong những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể đã làm cho những khái niệm và những điều quan sát của anh ta có được tính xác định về chất, có được tính hệ thống”(2).

Với Văn Công Hùng, từ hình tượng cái tôi trữ tình phong phú và đa dạng, anh đã mang lại cho người đọc những cảm xúc tươi nguyên về một thế giới thơ lấp lánh chất đời, được khơi lên từ hiện thực sống động của cuộc sống, giúp người đọc tìm ra những giá trị Chân - Thiện - Mỹ, để sống ý nghĩa hơn, đẹp hơn và nhân văn hơn. Đó là một “cái tôi trữ tình nhập vai” (Trần Đình Sử) đi sâu khám phá và chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và “phát hiện những quy luật vĩnh hằng của cuộc sống và thi ca” (Hồ Thế Hà).

T.T.V.D
(SH283/09-12)


..............................................
(1) [Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, 1997, Nxb Giáo dục, Hà Nội; tr145].
(2) [M.B. Khrapchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học (Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch), 1978, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội; tr12].








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)