Phức điệu kép trong thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh

15:11 12/03/2009
HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

Sau “Giọng nói mơ hồ”,Chất trụ” bước phát triển tiếp nối của thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh cao hơn, giàu phát hiện, tìm tòi. Thơ nặng về trí tuệ, triết lý. Đọc   Nguyễn Hữu Hồng Minh không bằng tiếng, mà đọc bằng nghĩa, phải nghĩ ngợi, suy ngẫm. Trong thị trường thơ ca đang bung ra, “Chất trụ” được neo lại với những ai tâm huyết với thơ, đang theo dõi tiến trình thơ hiện nay. Người hài lòng và người chưa hài lòng vẫn có thể tìm đọc để hiểu, ghi nhận đối chiếu về sự khác biệt, có khi đối trọng cả những điều được thừa nhận hoặc đang tranh cãi. Như vậy, tập thơ có chỗ đứng, còn chỗ để nói, chứ không phải cầm lên xem bìa, lướt đôi dòng rồi bỏ quên.

Chỗ đứng của thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh ở đâu? Cái gì làm nên thơ anh?

Bấy lâu nay người đọc và người phê bình đã có quá nhiều định nghĩa về thơ. Cho dù mọi định nghĩa vẫn là tương đối. Thơ có trước định nghĩa. Thơ thay đổi chẳng lẽ định nghĩa đứng yên? Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận. Thơ, theo Nguyễn Hữu Hồng Minh: Bóng tối chưa hẳn bóng tối, ánh sáng chưa hẳn ánh sáng / Những bí mật quyện nhau, những thông điệp luân chuyển.

Thơ không là sản phẩm trực giác, một phiên bản hiện thực, không phải lúc nào cũng cắt nghĩa cụ thể. Thơ lặn vào trong người đọc, để rồi bất ngờ nhô lên ở bến bờ tư tưởng khác, như anh đúc kết “Cái chết tới ngưỡng nó hé lộ ánh sáng" (Về thơ). Vì thế, để bố cục cho tập thơ, tác giả chia làm ba phần: Bùng nổ ghi chú, Giác quan ánh chớp, Nhân chứng tồn tại. Cả ba phần theo một lôgíc chủ định của cảm thức.

1. “Chất trụ” và nhà thơ lang thang nơi địa hạt mới.
Nguyễn Hữu Hồng Minh luôn ý thức khám phá, có phần táo bạo trong việc tìm kiếm địa hạt mới của thơ, một ý thức tự nguyện và thường trực. Nguyễn Hữu Hồng Minh định nghĩa: Cái tôi có là cái tôi là...Cái tôi la” là cái gì? Là cái sau cái tôi đã có. Đấy là địa hạt mới luân chuyển thường xuyên, không chịu đứng yên:
Kẻ khát khao những địa hạt
mà những mẫu tự thường nhật
không thể đạt tới
(Khoảng 3 giờ sáng, ngày 23 tháng 10)

Cuộc tìm kiếm này, từ lâu, đã là sự dấn thân của nhiều thế hệ nhà thơ. Nếu ai đó cho rằng họ đã liều lĩnh thách thức, hoặc chưa phải đến lúc, nhận xét ấy quả là vội vàng. Thử lùi lại 70 năm về trước, nếu các nhà Thơ Mới không dấn thân, không chịu sự báng bổ của dư luận, thì nền thơ Việt hôm nay sẽ ra sao?
Vận động tìm giá trị mới - Những giá trị trong suốt
Như sự hiểm nguy dưới đáy mắt em

Rõ ràng đây là cuộc tìm kiếm gian truân. Nhà thơ lý giải nó bằng sự đảm bảo chân thật, đam mê tự đáy lòng:
Sự trong suốt của anh, tôi và tất cả chúng ta
Như tiếng lá thầm thào với rễ cây
Có liên hệ bí mật nào giữa ngôi sao và bầu trời
Những ý nghĩ, ngón tay
Sự toả hơi lâng lâng
của những điều đang khám phá?
(Gương mặt ẩn chìm)

Bàn về “từ” trong thơ, nhiều người nói rồi. Quan niệm “Chữ bầu lên nghĩa, chữ bầu lên thơ”, là thủ pháp của từng nhà thơ. Điều lưu tâm, nhà thơ - người sáng tạo ngôn ngữ có thể tìm ra những chữ mới, nghĩa mới, mà trong bối cảnh nào đó, cảm xúc nào đó “Những mẫu tự thường nhật không thể đạt tới”. Chính hiện thực cuộc sống làm nảy sinh những mẫu tự mới, người nghệ sĩ nhặt lên, lựa chọn đưa vào tác phẩm chứ không dễ gì vắt óc nghĩ ra. Ngay các dấu thanh trong tiếng Việt, về mặt ký hiệu, có thể đang tạm thời ổn định. Nhưng đối với âm nhạc không thể bó hẹp sáu dấu thanh quen thuộc của tiếng Việt. Âm nhạc mở rộng biên độ âm thanh rất nhiều. Thơ có làm được như vậy không? Trong bài thơ viết tặng thầy Cao Xuân Hạo, Nguyễn Hữu Hồng Minh phát biểu ý tưởng:
Ta cái mỏ neo thời gian ném vào lòng biển
Trơ khẳng, trụi trần, vô vị - Ta là từ
Mang chứa những con sóng loạn
Tìm mãi những bãi bờ cảm giác vô tận vô biên

Và nhà thơ nhanh chóng nhận thấy :
Ngày tháng mài vẹt ta như một từ bị mài mòn
vì sử dụng quá nhiều,
đến lúc vuột mất chỗ đứng
trong cộng đồng Ngôn ngữ

Em tìm thấy ta như một nghĩa đã chết - Một từ loại
(Những từ lang thang)

Nhờ vốn mẫu tự sáng tạo này, người đọc có thể mở rộng trường liên tưởng nghệ thuật ra nhiều hướng khác nhau vươn tới những địa hạt mới, chống lại sự mòn nhàm của thơ.
Dĩ nhiên Nguyễn Hữu Hồng Minh không nhằm đưa ra quan niệm “từ" để chỉ nói về từ. Từ là cái vỏ âm thanh tạo nên phức điệu của thơ.

2. “Chất trụ” chứa đựng sự hoà hợp của các phức điệu sáng tạo. Các kiến giải lý luận nêu ra có chủ định, có mục đích cụ thể, tạm gọi là “phức điệu mở”.
Không phải vô tình mà Nguyễn Hữu Hồng Minh đặt tên cho từng bài thơ của mình: Vũ trụ bao la, thơ một dòng, Số phận đơn, Một dòng năm chấm, Dự cảm cây liễu, Lát cắt, Cái chết nguyên giá, Nhiệt hứng, Hai đoản ca bọt... Tên Bài, tự thân nó đã ẩn chứa, đôi khi là cái chìa khoá để mở bài thơ.

Phức điệu mơ bộc lộ trong tư duy thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh đa chiều. Câu thơ có lúc là câu văn xuôi, mang yếu tố chính luận đến cô đặc. Thí dụ: Tạo nên một chủ đề tự phản đề / Phá đổ mọi trường phái để cuối cùng tôi dựng lên một trường phái (Tôi viết những dòng cuối cùng, trên những trang vô cùng) - Gãy đổ cứ nối đuôi di chuyển biện chứng / Vô nghĩa phía bên này, ảo vọng phía bên kia (Về gãy đổ) - Một thời đại đôi khi chỉ đọng lại gương mặt mình trong một câu thơ (Tiếng nói bội trương) - Những thân thể kỳ dị bứt khỏi chiến tranh / Thời gian bứt sợi tóc / Bằng cử chỉ cánh tay bứt khỏi thân thê (Giác quan ánh chớp).

Phức điệu sáng tạo ấy mở ra giọng điệu mới và lạ trong thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh.

Ở tập thơ đầu tay “Giọng nói mơ hồ”, Nguyễn Hữu Hồng Minh đã hướng cảm xúc về phía tư duy triết luận ;
Giữa chúng ta là những tiếng nói
trong khoảng cách
Đã có những khoảng cách
trong tiếng nói
của chúng ta
Giữa chúng ta không nghệ thuật
Không đồng hiện
không cấu trúc
không khúc xạ
(Giữa chúng ta)

Thể nghiệm này của Nguyễn Hữu Hồng Minh và lớp nhà thơ trẻ cùng thời đã đặt lên bàn cân sáng tạo những trọng lực mới, buộc người đọc hướng về phía họ. Từ đây nảy sinh nhiều ý kiến nhận định, đánh giá khác nhau. Tôi cho đó là cái được của Nguyễn Hữu Hồng Minh và các nhà thơ như: Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Ly Hoàng Ly, Phan Huyền Thư...

Đa chiều trong phức điệu sáng tạo của thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh còn ở hướng khác - yếu tố trữ tình nhân thế. Chẳng hạn: Trong suốt như mắt em nhìn tôi / Bí mật ngàn lời, mênh mông trùng khơi / Tóc em rũ xuống một đám cháy lớn / Trong suốt như câu thơ, khó nhọc tìm trở lại (Gương mặt ẩn chìm). Hoặc là: Trong bão táp tháng Mười, tôi lắng nghe dự cảm của cây liễu / Bầu trời là vòm cung, thân cây là mũi cung / Sự hoang bạo của gió làm những mũi tên run lên / Như chuẩn bị bắn vào nỗi khát vọng chưa rõ mặt. (Dự cảm cây liễu)

Yếu tố trữ tình trong bài thơ không nhằm tả, mà để ngẫm. Cây họ liễu này không như thứ liễu rũ bên hồ, đây là loại liễu hình tháp bút hệt mũi tên. Tôi cứ nghĩ tới từng số phận con người - như thân phận cây liễu trong cuộc thể với bao nhiêu lao nhọc, khốc liệt nhưng giàu ước mơ cao cả. Dễ tìm thấy phức điệu trữ tình ở những bài thơ khác: Kịch tính, Vô hình, Cúi xuống, hỡi em!, Cỏ hiện thực và lãng mạn, Niệm khúc Lorca... Đặc biệt bài “Những người đi lễ sáng" xúc cảm dồn nén đến đỉnh điểm, sức khái quát rộng. Cuộc thế - Con người - Tín ngưỡng như một bức tranh bí ẩn. Trong bức tranh ấy thấm đẫm niềm đau và nỗi khát khao vô tận của con người:
Họ đã bước trong niềm tin sợ hãi
Thở niềm vui bằng một chiếc lưỡi buồn
Họ chổng chân lên trời mà cắm đầu xuống đất
Trong cái nhìn tăm tối của con dơi

3. Một phức điệu sáng tạo khác trong “Chất trụ”, tạm gọi
"phức điệu kín”.
Cuộc sống đầy ám tượng, bên cái hợp lý có cái phi lý, bên cái mực thước còn cái chênh vênh, bên chỉnh chu có phóng túng, tất cả thúc đẩy nhà thơ tìm lối thoát kín đáo, có phần dị biệt. Những bài thơ biểu hiện “phức điệu kín” dễ dàng chia độc giả làm hai phía: đồng tình và phản ứng. Người phản ứng có thể gọi thứ thơ này là loại thơ tắc tị, dẫn người đọc đến ngõ cụt, hoặc thơ nhục cảm, bô lô ba la... Người đồng tình họ coi đây là loại thơ ẩn ý, thơ hàm chứa. Thiết nghĩ, riêng vấn đề này nếu được bàn thấu đáo ở một cuộc hội thảo trao đổi khác sẽ rất hữu ích. Loạt bài thơ kiểu như: Ngọn giáo bí nhiệm, Những cái chuông cổ, Chữ vần âm cát, Treo dọc... thuộc dạng trên.
“Ăn hải cảng” là một trong những bài thơ dạng “
phức điệu kín":
Tôi đã ăn một Hải cảng
trong vòng ba tiếng đồng hồ
Hải cảng đó 20 năm xa, bỗng quay về
Không nghĩ mình có thể ăn nhiều thế!
Ăn những âm thanh nhỏ xíu như tiếng gió
Tiếng những con hà biển hát trên rêu và trên sóng
Đến con hải âu quen 20 năm
bay không mỏi trong ký ức
Cánh chim hay cánh thời gian?
Những chấm phá đời tôi cao vời

Ngay mấy chữ "tôi đã ăn một hải cảng” mới nghe đã thấy khó chịu, rờn rợn. Rờn rợn khi ta cố hiểu nghĩa thường dùng của động từ “ăn”. Và, như vậy quả khó chấp nhận khi đọc tới: Ăn hai trái vú em săn chắc thõng vào mặt như hai quả chuông... Thơ cũng như các loại hình nghệ thuật khác cần được hiểu và cảm qua nhiều tầng. Nếu coi “ăn” là nhận vào, là sự thấm đẫm tận trái tim khối óc con người, thì câu thơ trên thật da diết, là nỗi lòng của người đi xa sau hai mươi năm trở về, sẵn sàng nhận vào mình tất cả: một ngọn gió, một con hà, chiếc mỏ neo, nón áo, cả người thuỷ du quay về sau hai mươi năm "
đang bay lên những linh hồn bánh lái...”.

Và, khi đồng tình, tức là chúng ta chấp nhận sự bung mở của thơ, chấp nhận lối thoát ra, trào ra của bài thơ, phô bày bút lực của cái tôi ngoài chủ định.

“Chất trụ”, một thế giới riêng của thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh. Không còn là giọng nói mơ hô, anh đã tìm thấy địa hạt mới để khai khẩn, gieo vãi, tiếp cận tư tưởng lý luận của thơ hiện đại. Thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh như một thỏi vật chất góc cạnh. Ở phía này, góc này ta sẽ thấy nó không giống ở phía khác góc khác. Phức điệu sáng tạo đa chiều, dẫn đến đa nghĩa. Đấy là chỗ đáng được trân trọng và khách quan khi đánh giá một tác phẩm nghệ thuật.   
 

         Đồng Hới, ngày 5 tháng 11 năm 2002
                              H.V.T
(168/02-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.

  • “Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.

  • Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

  • Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.

  • Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

  • Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.

  • Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?

  • Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...

  • Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.

  • Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). 

  • (Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).

  • Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.

  • Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.

  • (Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)

  • YẾN THANH

    Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)

  • Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.

  • PHONG LÊ

    Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.