Thơ và Những ý nghĩa thỏa thuận

15:05 20/08/2021

LÊ HỒ QUANG   

Dưới “áp lực” của tiêu đề, khi đọc Thỏa thuận, gần như ngay lập tức, trong óc tôi nảy sinh hàng loạt câu hỏi: Thỏa thuận nói về cái gì?

TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

Thỏa thuận  

Ngôi nhà muốn bay
con đường muốn trôi
dòng sông muốn dựng ngược
các sự vật muốn được gọi tên
các sự việc muốn có đời sống mới.

 
Ngôn từ kết nối
phân chia.

 
Một người nói một người nghe
một người nói nhiều người nghe
nhiều người nói một người nghe
nhiều người nói nhiều người nghe.

 
Người nghe lặng lẽ nghe
người nói thản nhiên nói
người nghe tự hiểu
người nói tự im
và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa.
Thế giới không thuần nhất
bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận.

                              9/2010

(Nguồn: Trương Đăng Dung (2018), Những kỷ niệm tưởng tượng, Nxb. Európa, Budapest).  

Là sự “thỏa thuận” trong cấu trúc ngôn ngữ, giữa hai mặt ký hiệu và hình ảnh âm thanh cấu thành, vốn có mối quan hệ võ đoán? Là sự “thỏa thuận” trong hoạt động giao tiếp xã hội, giữa người nói và người nghe mà ngôn ngữ là phương tiện kết nối? Là sự “thỏa thuận” trong hoạt động tiếp nhận văn học, được xác lập trên mối quan hệ giữa độc giả và văn bản, một mối quan hệ cũng đầy tính bất định? Hay Thỏa thuận còn là gì đó khác?

Thoạt tiên, tôi thử áp dụng cách đọc lược, bao quát nhanh nội dung chính của văn bản, đồng thời kết nối một số yếu tố trong văn bản với những yếu tố bên ngoài, có mối liên hệ gần, chẳng hạn thông tin về con người tác giả; hoặc, những lý thuyết triết học, mỹ học… bàn về vấn đề liên quan. Thao tác đó cho phép tôi “lược quy” một số nét chính trong nội dung bài thơ như sau:

- Bài thơ bàn đến một tính chất đặc thù của hoạt động ngôn ngữ - tính “thỏa thuận” (hoặc diễn đạt theo cách khác - tính quy ước), trong giao tiếp đời sống và nghệ thuật. Đó là mối quan hệ vừa có tính xác định vừa đầy bất định.

- Bài thơ mô tả hoạt động ngôn ngữ thông qua một số biểu hiện cụ thể: nói, nghe, hiểu… khá sinh động. Ngôn ngữ là hình tượng trung tâm của bài thơ.

- Bài thơ giàu tính khái quát, triết lý. Nó gợi mở suy ngẫm về các mối quan hệ giao tiếp trong nghệ thuật và đời sống.

Có một số “điểm tựa” dẫn tôi đến sự suy luận về nghĩa/nội dung văn bản nói trên. Cụ thể như sau:

a) Tên bài thơ là Thỏa thuận. Toàn bộ câu chữ, hình ảnh trong văn bản tập trung vào việc làm sáng tỏ luận đề “tính thỏa thuận” trong giao tiếp ngôn ngữ.

b) Mối liên hệ giữa nội dung Thỏa thuận với một số tri thức, lý thuyết triết học, ngôn ngữ, văn hóa, nghiên cứu văn học hiện đại. Chẳng hạn, lý thuyết ngôn ngữ học cấu trúc của F. de Sausure với quan niệm về bản chất võ đoán của dấu hiệu ngôn ngữ1; lý thuyết Ký hiệu học với quan niệm về giao tiếp ngôn ngữ trong đời sống và nghệ thuật “như là sự giao nhau đầy căng thẳng giữa những hành vi ngôn ngữ tương thích và không tương thích” (IU.M. Lotman)2; Mỹ học tiếp nhận với quan niệm khẳng định bản chất giao tiếp của nghệ thuật và tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động tiếp nhận của độc giả3. Ngoài ra, về vấn đề này, còn có thể nhắc đến lý thuyết giải cấu trúc, lý thuyết diễn ngôn, lý thuyết hậu hiện đại

c) Mối liên hệ giữa Thỏa thuận với kiểu tư duy, cảm quan thẩm mỹ của nhà thơ (đồng thời cũng là nhà nghiên cứu văn học) Trương Đăng Dung và với những sáng tác khác của ông.

Nhưng có thực nghĩa/ ý nghĩa của bài thơ chỉ nằm ở đó?

Theo quan điểm tiếp nhận hiện đại, nghĩa/ ý nghĩa của bài thơ được tạo sinh trong hoạt động tiếp nhận của độc giả. Nghĩa là, tùy vào năng lực đọc của độc giả, sẽ xuất hiện vô số văn bản Thỏa thuận phái sinh, trên cơ sở văn bản ngôn từ đã được Trương Đăng Dung khởi tạo. Như vậy, một số nghĩa mà tôi “đọc lược” ở trên, thực chất cũng chỉ là sự “thỏa thuận” của cá nhân tôi với văn bản. Văn bản phát, còn tôi nhận. Với tầm đón nhận của tôi, nghĩa của văn bản có thể là vậy. Nhưng với độc giả khác, nghĩa của Thỏa thuận sẽ không, hoặc không chỉ như vậy.

Mặt khác, sự lược quy nội dung của tác phẩm vào việc tóm tắt nội dung, kèm theo một số chú giải như cách tôi đã làm ở trên là hoàn toàn không đủ. Không thể truyền đạt bản chất của tác phẩm văn học dưới dạng trình bày tóm tắt nội dung của nó. Ngoài ra, việc lý giải văn bản bằng những yếu tố nằm ngoài cấu trúc chỉnh thể văn bản rất dễ dẫn đến nguy cơ áp đặt và suy diễn. Hệ quả là, thay vì bản chất thẩm mỹ của tác phẩm, tôi chỉ nhìn thấy “cái vỏ biểu kiến bên ngoài” của nó.

Vấn đề tiếp theo là, giữa “thỏa thuận” của tôi và “thỏa thuận” của độc giả khác với bài thơ, đâu là kết quả đúng? Đâu mới thực sự là nghĩa và ý nghĩa của bài thơ?

Ở trên, tôi mới dừng lại ở cách đọc lược, tức tìm kiếm những yếu tố ngôn từ lặp lại, tập trung vào tiêu điểm “thỏa thuận”, kết nối chúng với chủ đề, dùng những kinh nghiệm và tri thức đã có về những yếu tố ngoài văn bản (thông tin về tác giả, các lý thuyết triết học, mỹ học, khoa học…), cố gắng tìm mối liên hệ giữa chúng, nhằm tìm ra những lớp nghĩa tương ứng. Điều này thực ra không khó, bởi giữa văn bản Thỏa thuận và những yếu tố bên ngoài ấy quả thực có mối liên hệ khá rõ, khá trực tiếp. Tuy nhiên, những lớp nghĩa mà tôi tìm thấy chủ yếu là nghĩa đen, nghĩa xã hội học.

Việc đọc văn bản, nếu muốn tiệm cận tới những lớp nghĩa sâu hơn, đòi hỏi đọc kỹ (close reading). Với cách đọc này, bài thơ được nhận thức như một cấu trúc có tính tự trị, với sự toàn vẹn hữu cơ của nó.

Vậy có gì đặc biệt trong cấu trúc nội thân của Thỏa thuận?

Bài thơ chia làm 5 đoạn. Đoạn thứ nhất, gồm 5 dòng, tôi tạm gọi là phần tạo tình huống:

Ngôi nhà muốn bay
con đường muốn trôi
dòng sông muốn dựng ngược
các sự vật muốn được gọi tên
các sự việc muốn có đời sống mới.

Ngôi nhà, con đường, dòng sông
là những sự vật, hình ảnh quen thuộc, gắn liền những ý niệm tính chất, đặc điểm đã thành ổn định, bất biến trong lịch sử ngôn ngữ. Bằng cách đặt tên cho sự vật, con người đã thực hiện hành vi cưỡng chế sự vật, buộc chúng tồn tại trong khuôn khổ ý niệm có tính định mệnh. Bài thơ nêu lên một tình huống giả tưởng, và cũng là một đề nghị cùng suy nghĩ: ngôi nhà muốn bay, con đường muốn trôi, dòng sông muốn dựng ngược. Đòi hỏi “được gọi tên”, đòi hỏi có một “đời sống mới”, thực chất là đòi hỏi thay đổi nhận thức của con người về những chân lý mặc định, những “đại tự sự” bất biến.

Từ tình huống giả tưởng về sự nổi loạn của sự vật nhằm chống lại sự áp chế của ngôn ngữ, bài thơ tiếp tục mạch mô tả về hoạt động ngôn ngữ trong thực tiễn đời sống:

Một người nói một người nghe
một người nói nhiều người nghe
nhiều người nói một người nghe
nhiều người nói nhiều người nghe.

 
Người nghe lặng lẽ nghe
người nói thản nhiên nói
người nghe tự hiểu
người nói tự im


Vô số tình huống giao tiếp được phác nhanh trong tám dòng thơ. Có giao tiếp cá nhân với cá nhân (một người nói một người nghe); giao tiếp cá nhân với tập thể (một người nói nhiều người nghe); giao tiếp tập thể với tập thể (nhiều người nói nhiều người nghe)… Ấy là ta tạm định danh và phân loại thế, để lược quy chúng về một số dạng thức giao tiếp phổ biến trong đời sống với hai hoạt động tương tác là nói - nghe. Tuy nhiên, với sự lặp đi lặp lại liên tục của những cụm từ nói/ nghe, một người/ một người, nhiều người/ nhiều người… những đường nét, sự kiện cụ thể bị nhòe đi, chỉ còn lại cảm giác về một cuộc đối thoại liên tu bất tận nhưng âm thanh đã bào mòn, trượt nghĩa, rỗng nghĩa, gợi liên tưởng tới Tháp Babel âm thanh lở lói, nham nhở, trống rỗng… Cuộc hội thoại khổng lồ nhưng câm lặng của nhân loại được “tạo hình” thật xuất sắc.

Rốt cục, đến lúc đối thoại cũng sẽ trở thành độc thoại. Đến lúc chủ thể và đối tượng giao tiếp cũng biến mất. Đúng hơn, chủ thể hòa lẫn vào mênh mông câm lặng: lặng lẽ nghe/ thản nhiên nói/ tự hiểu/ tự im.

Khi chủ thể và đối tượng giao tiếp (là người) dần đánh mất vị thế, ngôn ngữ trỗi dậy khẳng định quyền tự trị của mình:

- Ngôn từ kết nối
phân chia.

- và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa.


Ý tưởng về sức mạnh ngôn ngữ trên khiến ta liên tưởng đến Kinh Thánh - Khởi thủy là Lời. Lời (ngôn ngữ) là sức mạnh nối kết, cũng là sức mạnh hủy hoại. Tính tự do tạo nghĩa của nó, một mặt, hàm chứa vẻ đẹp và giá trị tự thân, mặt khác, báo trước những nguy cơ, thậm chí là hiểm họa. Vấn đề nằm ở nhận thức của con người:

Thế giới không thuần nhất
bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận.


Biến một ý niệm trừu tượng (ngôn ngữ) thành một hình tượng, đồng thời, đứng từ/ trong điểm nhìn của đối tượng, cất lên tiếng nói “phản biện”, đòi hỏi một nhận thức thấu đáo hơn về bản chất ngôn ngữ, và cùng với nó - bản chất của giao tiếp xã hội, nghệ thuật, đó là một cách lập tứ độc đáo.

Thực ra, về mặt thông tin, Thỏa thuận không đặt ra vấn đề gì mới (dĩ nhiên đây không phải mục đích chính của nó). Mặt khác, sự nhất quán từ tiêu đề đến hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đã tạo áp lực dẫn đến kết luận có tính tất yếu. Bài thơ, do vậy, rất chặt chẽ về cấu tứ song tương đối “đóng” về nghĩa. Việc tập trung mô tả ngôn ngữ như một khách thể độc lập với ý thức con người, bằng giọng điệu khách quan, trung tính, dẫn đến hiện tượng “giải chủ thể” ngay trong chính văn bản. Sự giấu mặt triệt để của tác giả cũng khiến ngôn ngữ, giọng điệu thơ trở nên đơn điệu.

Thi tính của bài thơ, đôi khi, nằm ở một số yếu tố tưởng chừng phụ trợ. Chẳng hạn, cái cảm giác tức tối cựa quậy của ngôi nhà muốn bay/ con đường muốn trôi/ dòng sông muốn dựng ngược ở phần mở đầu. Hoặc, cảm giác bội trương đến tức thở của những cuộc hội thoại, mà phần biểu cảm đã bị cắt bỏ, chỉ còn lại phần nhiễu thanh:

Một người nói một người nghe
một người nói nhiều người nghe
nhiều người nói một người nghe
nhiều người nói nhiều người nghe.


Hệt như ta đang đứng trước một bức tranh siêu thực, ảnh tượng nhòe vào nhau, chồng lấn lên nhau, bội trương đến n lần. Lớp lớp ảo cảnh đan xen đến đau mắt, đến tức thở, nhức nhối. Giống như trong cơn Ác mộng mà tác giả từng kể:

Tất cả áp sát tôi
tôi nói, họ không hiểu
họ nói, tôi không hiểu


Hoặc trong Giấc mơ của Kafka:

Khắp nơi
những đôi mắt
dính trên cổ những người không có mặt
những tiếng kêu
phát ra từ miệng người không có cổ
những bàn chân
càng bước càng lún sâu vào đất


Nhận thức về một thế giới “không thuần nhất”, “bấp bênh” và “ý nghĩa” giao tiếp chỉ là kết quả của sự “thỏa thuận” đồng thời gợi cảm giác đời sống đầy lo âu, hoài nghi và bất an. Trong một đời sống thiếu vắng sự kết nối, cảm thông và thấu hiểu, im lặng là một thứ ngôn ngữ bắt buộc. Một thứ ngôn ngữ bất lực và buồn bã:

Người nghe lặng lẽ nghe
người nói thản nhiên nói
người nghe tự hiểu
người nói tự im


Ngay việc chọn đặt tên bài thơ, thay vì một số từ/ cụm từ hay cách diễn đạt có tính minh xác và khoa học hơn (chẳng hạn, quy ước ngôn ngữ…, dĩ nhiên đây không phải phương án hay), tác giả lại chọn từ Thỏa thuận, một cách diễn đạt có phần đời thường, khá lấp lửng, chắc chắn tạo nên những suy diễn xa hơn hoạt động giao tiếp ngôn ngữ thuần túy. Cách diễn đạt này, vì thế, hàm chứa một ý vị mỉa mai kín đáo. Ngôn từ, ở đây, một lần nữa đã “tự do tạo nghĩa”.

Đọc kỹ, với tư cách là một phương pháp, rất có ý nghĩa trong tiếp nhận tác phẩm văn học. Đó là cách đọc coi trọng cấu trúc chỉnh thể của văn bản, với các yếu tố cấu thành hữu cơ. Dẫu vậy, trên thực tế, không thể bỏ qua các cách đọc hỗ trợ như đọc bao quát, đọc liên hệ bối cảnh… Trong trường hợp Thỏa thuận, không thể thiếu sự hỗ trợ của các thông tin ngoài văn bản.

Cùng một hiện tượng văn học, có nhiều cách tiếp cận, lý giải và không thể ảo tưởng đòi hỏi một cách đọc/ hiểu duy nhất đúng. Riêng về điều này, Thỏa thuận chính là một nhắc nhở cần thiết.

Vinh, 14/4/2021
L.H.Q
(TCSH389/07-2021)

-----------------------------
1. F. de Sausure (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb. Khoa học Xã hội.
2. IU.M. Lotman (2016), Kí hiệu học văn hóa, Lã Nguyên dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.74.
3. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb. Khoa học Xã hội.  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH