Thơ Trương Đăng Dung trong cảm nhận của tôi

09:16 07/09/2018

GIÁNG VÂN

LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.

Ảnh: internet

1.

“Em ngồi bên anh nhìn dòng sông/ chảy từ phía chân trời/ đầy nắng, mưa và gió.” (Trên đồi vọng cảnh).

Thường như vậy, thơ Trương Đăng Dung bắt đầu và tiếp tục bằng những câu, những hình ảnh, thậm chí miêu tả rất đơn giản. Đơn giản đến nỗi chúng ta ai cũng từng nhìn thấy, cũng từng trải qua.

Nhưng cái khác đó là sự vang vọng của cảm xúc, gợi ra một sự cao, xa, rộng và sâu của không gian và thời gian.

Cái dòng sông mà nhà thơ nói tới là dòng sông của sự ưu tư triết học, nó đã chảy từ vô tận thời gian, không gian, “đầy nắng, mưa và gió”, chảy trong mỗi sát na của đời sống. Dòng sông đó chảy qua cuộc đời mỗi chúng ta cho dù ta biết hay ta không biết.

“Chảy về đâu sông ơi/ sao chỉ thấy một con thuyền thấp thoáng?”

Cái mà chúng ta nhìn thấy bằng con mắt trần thế, chỉ một trong muôn vàn. Cái mà chúng ta muốn cầm giữ thực ra là chỉ là huyễn ảnh.

Nhưng huyễn ảnh trong giây phút nó từng đi qua, trong cái đời sống ngắn ngủi của đời người, trong một sát na của triệu triệu sát na, kỳ diệu thay nó có sự ấm nóng của sự sống, của tình yêu con người, của nhà thơ. Trương Đăng Dung nhận ra điều đó bằng chính sự khắc khoải của thi nhân. Dường như, bằng toàn bộ sự cố gắng trong sự tuyệt vọng, khắc khoải của mình, nhà thơ đã dùng thứ kí tự của loài người hòng lưu lại sự ấm nóng đó, để chống lại quy luật khắc nghiệt của thời gian, của đời sống.

Trong bài “Vật chứng”, Trương Đăng Dung viết:

“Sợ bóng tối tràn vào/ khi em mở tung của sổ/ cơ thể chúng ta thôi rạng rỡ/ sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ/ sợ căn phòng trở nên trống rỗng/ khi em xếp lại chăn màn/ ký ức không còn nơi ẩn náu”

Xuân Diệu từng viết: “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua”, ông cũng mang cái cảm thức thời gian mà Trương Đăng Dung có, nhưng ở Trương Đăng Dung mang một chiều sâu, nặng hơn, lặng hơn mà buồn thương kỳ lạ.

“Thành phố phía chân trời/ một căn phòng một cái giường hai chiếc gối/ một đôi mắt buồn/ mười ngón tay thức dậy trước bình minh/ bao nhiêu lần khép cửa/ em vẫn thấy mình chưa ở bên trong” (Thành phố phía chân trời).

Thời gian, đó là sự trải dài bất tận những sự lặp lại các hạnh phúc giống nhau, bất hạnh giống nhau, tội ác, dối trá, bạo lực… giống nhau đến đau lòng. Đau lòng vì những kiếp nạn mà con người vì sự vô minh đã không nhận ra:

“Người đàn bà đẩy chiếc xe lăn/ lần thứ mười ba đưa chồng vào bệnh viện/ đêm dài hơn ngày/ ngày dài hơn con đường đã đi/ nỗi buồn của chị/ cũ hơn tháng ngày” (Ghi chép hè 2009).

Và tiếp:

“Bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo/ máu người nhuộm đỏ sách Kinh/ bom nổ ở một chợ Bagdad/ thịt người trộn vào rau quả/ những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn/ không thấy kẻ gây tội ác/ chỉ thấy nạn nhân/ và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ”

Điều kinh khủng là tất cả đã biến mất, đã trôi về những quá khứ không còn vật chứng, những quá khứ từng đầy ắp tất cả, vui buồn, gian khó, thương đau, máu và nước mắt của cả một cộng đồng cho đến mỗi cá nhân. “Cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi/ tôi không còn ký ức/ những giọt máu cuối trời tuổi thơ…”

Cứ như vậy, giọng thơ Trương Đăng Dung nhẹ như một hơi thở, một lời tự sự, nhưng trong một thế giới ồn ào, náo nhiệt, đảo điên, thì sự khiêm nhường từ những câu thơ của thi nhân lại có một sức vang động, day dứt không ngờ. Bởi, trong mỗi một tình riêng, trong mỗi phiền muộn hay buồn thương của một cá thể trong đời sống bây giờ, hiện thời, đã mang dấu vết, đã là hiện thân, đã phóng chiếu cho chúng ta thấy quá khứ và tương lai của toàn thể mọi kiếp người.

“Còn đây gương mặt của con người/ nhàu nát mưu sinh và hy vọng/ thăm thẳm trời cao đất rộng/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi/ xao xuyến những mùa thu gió thổi…”

2.

“Thấy không em đường chân trời trước mặt?/ anh đã từng đến đó trong mơ/ có khi như Jesu đi trên mặt nước/ lòng anh cao thượng sáng trong/ có khi như một tên tội phạm/ anh bước đi uất hận trong lòng/ có khi như một đứa trẻ/ hân hoan ngơ ngác chờ mong…” (Chân trời).

“Anh và em đi trên mặt đất này/ giữa những bức tường ta xây và phá/ nhưng tất cả đều bị bao quanh/ bởi những bức tường không nhìn thấy/ …khi ta ngước mắt nhìn trời xanh/ trên mặt đất đã có những bức tường/ khi ta cúi xuống nhìn mặt đất/ xung quanh ta đã có những bức tường/…những bức tường ta không xây/ những bức tường không thể phá/ đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ/ cười nói huyên thuyên trên những bức tường này” (Những bức tường).

“Tôi chạy trên bức tường dựng đứng/ những con nhện đen đuổi theo/ những con thằn lằn đen đuổi theo/ …tôi chạy trên cánh đồng bỏ hoang/ những người khiếm thị ôm súng đuổi theo/ những người khiếm thính cầm loa đuổi theo/ tôi chạy trên đại lộ không người/ những chiếc xe lăn chất đầy chân giả đuổi theo/ những chiếc xe nôi chứa đầy mắt trẻ em đuổi theo/ tất cả áp sát tôi/ tôi nói, họ không hiểu/ họ nói, tôi không hiểu” (Ác mộng).

“Tai họa bất ngờ ập xuống/ những đứa con bị giết/ những người bạn hiểu sai/ nỗi đau này/ như mũi tên/ Đấng Toàn Năng bắn vào tim Giop/ không ai tin Giop là người công chính/ …trong mắt Đấng Toàn Năng/ không có mặt trăng nào đủ sáng/ không có vì tinh tú nào đủ sạch/ loài người như sâu bọ/ con cái loài người khác chi một loại côn trùng/ …Giữa nỗi đau và đức tin/ sợ hãi và quyền uy/ Giop thỏa hiệp” (Sách của Giop).

Trương Đăng Dung, nhận ra, tôn giáo phần nhiều không gì khác hơn là những bức tường thành dựng lên giữa những con người với nhau. Đức tin của mỗi người là những tường thành họ tự dựng lên với kẻ khác. Thế giới của chúng ta là vô số những tường thành kiên cố và vô hình. Con người thống khổ triền miên bất tận trong những bức tường vô minh của mình. Họ chiến đấu và những cuộc chiến dường như không có hồi kết bởi những bức tường quanh mình. Trong cuộc chiến đó, con người nhân danh đức tin của mình để tạo ra cái ác. Rồi cái ác lại đẻ ra cái ác. Trong Phật giáo, nó tạo ra nghiệp quả. Nghiệp quả của một cá nhân, nghiệp quả của cả một cộng đồng, nghiệp quả của cả một dân tộc…

Trong thơ Trương Đăng Dung rất nhiều những giấc mơ, thậm chí, mơ ngay khi đang tỉnh thức. Những cơn mơ là những dự báo từ vô thức về hiện tại và tương lai. Chính là vô thức, trực giác thi nhân cho anh ta bảo bối có thể nhìn thẳng, nhìn thấu tận cốt lõi vấn đề, mà bằng lí trí ta không dễ nhìn thấy.

Trong “Tự do của Kazantzaki”, “Tinh thần Kafka”, “Giấc mơ của Kafka”, “Sách của Giô-na”… những suy tư triết học của Trương Đăng Dung cũng cho thấy những bất cập của những bức tường vô hình đã và đang dựng lên giữa con người với nhau, giữa con người với hạnh phúc của chính họ.

Những suy tư triết học này không bị nhàm chán, khô cứng, bởi nó sinh ra từ trải nghiệm, vui buồn, xúc cảm gắn với đời sống của thi nhân, và được anh ta viết ra bằng một thứ ngôn ngữ đẹp, đơn giản, nhưng truyền cảm.

3.

Bài thơ “Những con kiến” là cái nhìn từ trên cao về lịch sử loài người, về sinh tồn, về những tai họa, những cơn đại hồng thủy, về cái chết và sự sống tiếp nối, không ngừng chuyển động, không một giây dừng lại cho dù thương đau và bất hạnh không ngừng đổ xuống, ngẫu nhiên, không được báo trước. Nhà thơ viết: “Số phận và lo toan của kiến làm sao tôi hiểu được?/ Chỉ có kiến mới hiểu và chịu đựng được số phận của kiến mà thôi!”

Điều này không phải là một phát kiến. Cũng như những suy tư triết học trong thơ Trương Đăng Dung, không phải là những phát hiện mới, nhưng thấm đẫm nỗi niềm nhân sinh, thấm đẫm tình yêu với đời sống hiện tồn, cũng là duyên do của thơ.

Chết, sự kết nối thần bí của âm dương, đen trắng, bóng tối và ánh sáng, giữa linh hồn và thể xác vật chất luôn là sự hấp dẫn của những tâm hồn phương Đông. Một con người ở xứ sở này khi rời xa thế gian, không có nghĩa họ đã kết thúc đời sống. Mà họ sẽ tiếp tục tồn tại dưới một dạng thức khác. Họ vẫn hiện diện đâu đó trong không gian, quanh những người còn sống. Vẫn còn mang nỗi khắc khoải của chính họ trên cõi đời, những khắc khoải cũng đã cũ mèm, nhưng luôn mới trong những cuộc đời kẻ khác:

“Con thấy bố về đêm qua/ ngoài đồng xa/ hiu hắt trăng treo/ nhiều cái bóng vật vờ cùng đom đóm/ bố bảo dưới đất còn bom/ xương người chết/ lẫn với mìn chưa nổ/ con gọi bố/ chỉ nghe tiếng gió/ một vệt sáng vút qua/ sáng nay trong gương/ con bắt gặp ánh mắt buồn của bố/ tuổi năm mươi/ có gì mới hơn sau mỗi kiếp người?/ con hỏi bố/ thấy một người già đứng lặng lẽ nhìn con” (Giấc mơ của con).

Chết, ở góc độ khác, còn là sự hòa mình vào một đời sống khác. Chết là khi được thấy linh hồn con người bình đẳng với linh hồn vạn vật.

“Đêm vẫn ôm tôi im lặng/ như đất ôm xương người” (Đêm ở Roma).

“Tôi đi giữa mọi người, bên những hàng cây im lặng, lòng thầm biết ơn thân cây nào rồi đây ngã xuống, xẻ mình ra ôm tôi về cát bụi/ tôi không mang đến điều gì mới lạ, giữa quá khứ và tương lai tôi chỉ là đứa trẻ biết già.” (Tự bạch).

4.

Như lúc đầu tôi có nói về sự đơn giản, rõ ràng, mạch lạc của những hình ảnh trong thơ Trương Đăng Dung. Ở đó, dĩ nhiên phải nói đến ngôn ngữ, một cái vỏ ngôn ngữ ôm chứa trong nó một nội hàm thi ca của mà thi nhân muốn truyền tải.

Cái vỏ ngôn ngữ thơ Trương Đăng Dung sử dụng, không hề tìm kiếm sự dị biệt, khác lạ, không thấy bàn tay của sự kỳ công đẽo gọt, tỉa tót. Đó cũng chính là sự thuận lợi cho người đọc tiếp cận dễ hơn với thế giới thi ca của anh. Ngôn ngữ, nó chỉ thực sự lợi hại khi là một thể thống nhất hữu cơ với cái nó biểu đạt.

Thế nhưng điều đáng ngạc nhiên ở đây, là trong một vỏ ngôn ngữ cực kỳ thuần khiết, mạch lạc, thơ Trương Đăng Dung lại chứa đầy sự huyền bí.

Sự huyền bí, biên ảo giữa cái có và cái không, cái hư và cái thực, sự trộn lẫn, hoán đổi giữa những thời gian khác nhau, không gian khác nhau trong những dòng chảy của đời người, của lịch sử tạo nên hấp dẫn lôi cuốn trong không gian thơ của thi sĩ.

“Anh cảm nhận thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này/ giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay” (Có thể).

“Anh nhìn vào mắt em/ thấy hình anh ở đấy/ nếu mắt em khép lại/ ảnh hình kia chỉ còn lại trong em/ anh không còn anh trong hiện tại/ chỉ thấy em với những hình nhưng ảnh/ của mùa hè đang qua/ một góc vườn và mấy khóm hoa” (Ảo ảnh).

Trong bài thơ “Trong quán cà phê piano”, sự nối tiếp bí ẩn của sự sống từ một cái chết là một phát hiện: trong quán cà phê có một nghệ sĩ dương cầm đã mất. Nhưng đêm đêm, những người đến đây uống cà phê, trong họ nghệ sĩ vẫn còn sống bằng tấm tình, nỗi niềm của anh gửi vào tiếng đàn mà họ từng nghe, từng yêu.

Hay thi sĩ khi nghĩ về cái chết của mình sẽ được một cái cây nào đó ôm mình vào lòng.

Hay khi thi sĩ nói rằng, “Anh không thấy thời gian trôi/ thời gian ở trong máu không lời/ ẩn mình trong khóe mắt làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi” (Anh không thấy thời gian trôi).

Sự bí ẩn, huyền hoặc của thơ Trương Đăng Dung còn ở chỗ, thi sĩ đã vượt thoát khỏi cái cụ thể trực quan để đạt đến tính phổ quát, biểu tượng.

Thời gian, không gian, sự sống, cái chết, đức tin, nỗi đau của kiếp người... ở Trương Đăng Dung đều là ẩn dụ, hoán dụ, hay là biểu tượng, vì vậy, nó mang tính phổ quát. Tựa đề tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” cũng là một ví dụ cho ý kiến này.

Điều cuối cùng tôi muốn nói tới về thơ Trương Đăng Dung, đó là, với tất cả những điều trên, Trương Đăng Dung đã thực sự tạo dựng được một thế giới thơ của riêng mình, với một vẻ đẹp không trộn lẫn. Đó là điều mà bất cứ một người làm thơ nào cũng mong ước đạt đến.

Hà nội ngày 18/8/2018
G.V  
(TCSH354/08-2018)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.