Thơ Trương Đăng Dung trong cảm nhận của tôi

09:16 07/09/2018

GIÁNG VÂN

LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.

Ảnh: internet

1.

“Em ngồi bên anh nhìn dòng sông/ chảy từ phía chân trời/ đầy nắng, mưa và gió.” (Trên đồi vọng cảnh).

Thường như vậy, thơ Trương Đăng Dung bắt đầu và tiếp tục bằng những câu, những hình ảnh, thậm chí miêu tả rất đơn giản. Đơn giản đến nỗi chúng ta ai cũng từng nhìn thấy, cũng từng trải qua.

Nhưng cái khác đó là sự vang vọng của cảm xúc, gợi ra một sự cao, xa, rộng và sâu của không gian và thời gian.

Cái dòng sông mà nhà thơ nói tới là dòng sông của sự ưu tư triết học, nó đã chảy từ vô tận thời gian, không gian, “đầy nắng, mưa và gió”, chảy trong mỗi sát na của đời sống. Dòng sông đó chảy qua cuộc đời mỗi chúng ta cho dù ta biết hay ta không biết.

“Chảy về đâu sông ơi/ sao chỉ thấy một con thuyền thấp thoáng?”

Cái mà chúng ta nhìn thấy bằng con mắt trần thế, chỉ một trong muôn vàn. Cái mà chúng ta muốn cầm giữ thực ra là chỉ là huyễn ảnh.

Nhưng huyễn ảnh trong giây phút nó từng đi qua, trong cái đời sống ngắn ngủi của đời người, trong một sát na của triệu triệu sát na, kỳ diệu thay nó có sự ấm nóng của sự sống, của tình yêu con người, của nhà thơ. Trương Đăng Dung nhận ra điều đó bằng chính sự khắc khoải của thi nhân. Dường như, bằng toàn bộ sự cố gắng trong sự tuyệt vọng, khắc khoải của mình, nhà thơ đã dùng thứ kí tự của loài người hòng lưu lại sự ấm nóng đó, để chống lại quy luật khắc nghiệt của thời gian, của đời sống.

Trong bài “Vật chứng”, Trương Đăng Dung viết:

“Sợ bóng tối tràn vào/ khi em mở tung của sổ/ cơ thể chúng ta thôi rạng rỡ/ sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ/ sợ căn phòng trở nên trống rỗng/ khi em xếp lại chăn màn/ ký ức không còn nơi ẩn náu”

Xuân Diệu từng viết: “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua”, ông cũng mang cái cảm thức thời gian mà Trương Đăng Dung có, nhưng ở Trương Đăng Dung mang một chiều sâu, nặng hơn, lặng hơn mà buồn thương kỳ lạ.

“Thành phố phía chân trời/ một căn phòng một cái giường hai chiếc gối/ một đôi mắt buồn/ mười ngón tay thức dậy trước bình minh/ bao nhiêu lần khép cửa/ em vẫn thấy mình chưa ở bên trong” (Thành phố phía chân trời).

Thời gian, đó là sự trải dài bất tận những sự lặp lại các hạnh phúc giống nhau, bất hạnh giống nhau, tội ác, dối trá, bạo lực… giống nhau đến đau lòng. Đau lòng vì những kiếp nạn mà con người vì sự vô minh đã không nhận ra:

“Người đàn bà đẩy chiếc xe lăn/ lần thứ mười ba đưa chồng vào bệnh viện/ đêm dài hơn ngày/ ngày dài hơn con đường đã đi/ nỗi buồn của chị/ cũ hơn tháng ngày” (Ghi chép hè 2009).

Và tiếp:

“Bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo/ máu người nhuộm đỏ sách Kinh/ bom nổ ở một chợ Bagdad/ thịt người trộn vào rau quả/ những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn/ không thấy kẻ gây tội ác/ chỉ thấy nạn nhân/ và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ”

Điều kinh khủng là tất cả đã biến mất, đã trôi về những quá khứ không còn vật chứng, những quá khứ từng đầy ắp tất cả, vui buồn, gian khó, thương đau, máu và nước mắt của cả một cộng đồng cho đến mỗi cá nhân. “Cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi/ tôi không còn ký ức/ những giọt máu cuối trời tuổi thơ…”

Cứ như vậy, giọng thơ Trương Đăng Dung nhẹ như một hơi thở, một lời tự sự, nhưng trong một thế giới ồn ào, náo nhiệt, đảo điên, thì sự khiêm nhường từ những câu thơ của thi nhân lại có một sức vang động, day dứt không ngờ. Bởi, trong mỗi một tình riêng, trong mỗi phiền muộn hay buồn thương của một cá thể trong đời sống bây giờ, hiện thời, đã mang dấu vết, đã là hiện thân, đã phóng chiếu cho chúng ta thấy quá khứ và tương lai của toàn thể mọi kiếp người.

“Còn đây gương mặt của con người/ nhàu nát mưu sinh và hy vọng/ thăm thẳm trời cao đất rộng/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi/ xao xuyến những mùa thu gió thổi…”

2.

“Thấy không em đường chân trời trước mặt?/ anh đã từng đến đó trong mơ/ có khi như Jesu đi trên mặt nước/ lòng anh cao thượng sáng trong/ có khi như một tên tội phạm/ anh bước đi uất hận trong lòng/ có khi như một đứa trẻ/ hân hoan ngơ ngác chờ mong…” (Chân trời).

“Anh và em đi trên mặt đất này/ giữa những bức tường ta xây và phá/ nhưng tất cả đều bị bao quanh/ bởi những bức tường không nhìn thấy/ …khi ta ngước mắt nhìn trời xanh/ trên mặt đất đã có những bức tường/ khi ta cúi xuống nhìn mặt đất/ xung quanh ta đã có những bức tường/…những bức tường ta không xây/ những bức tường không thể phá/ đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ/ cười nói huyên thuyên trên những bức tường này” (Những bức tường).

“Tôi chạy trên bức tường dựng đứng/ những con nhện đen đuổi theo/ những con thằn lằn đen đuổi theo/ …tôi chạy trên cánh đồng bỏ hoang/ những người khiếm thị ôm súng đuổi theo/ những người khiếm thính cầm loa đuổi theo/ tôi chạy trên đại lộ không người/ những chiếc xe lăn chất đầy chân giả đuổi theo/ những chiếc xe nôi chứa đầy mắt trẻ em đuổi theo/ tất cả áp sát tôi/ tôi nói, họ không hiểu/ họ nói, tôi không hiểu” (Ác mộng).

“Tai họa bất ngờ ập xuống/ những đứa con bị giết/ những người bạn hiểu sai/ nỗi đau này/ như mũi tên/ Đấng Toàn Năng bắn vào tim Giop/ không ai tin Giop là người công chính/ …trong mắt Đấng Toàn Năng/ không có mặt trăng nào đủ sáng/ không có vì tinh tú nào đủ sạch/ loài người như sâu bọ/ con cái loài người khác chi một loại côn trùng/ …Giữa nỗi đau và đức tin/ sợ hãi và quyền uy/ Giop thỏa hiệp” (Sách của Giop).

Trương Đăng Dung, nhận ra, tôn giáo phần nhiều không gì khác hơn là những bức tường thành dựng lên giữa những con người với nhau. Đức tin của mỗi người là những tường thành họ tự dựng lên với kẻ khác. Thế giới của chúng ta là vô số những tường thành kiên cố và vô hình. Con người thống khổ triền miên bất tận trong những bức tường vô minh của mình. Họ chiến đấu và những cuộc chiến dường như không có hồi kết bởi những bức tường quanh mình. Trong cuộc chiến đó, con người nhân danh đức tin của mình để tạo ra cái ác. Rồi cái ác lại đẻ ra cái ác. Trong Phật giáo, nó tạo ra nghiệp quả. Nghiệp quả của một cá nhân, nghiệp quả của cả một cộng đồng, nghiệp quả của cả một dân tộc…

Trong thơ Trương Đăng Dung rất nhiều những giấc mơ, thậm chí, mơ ngay khi đang tỉnh thức. Những cơn mơ là những dự báo từ vô thức về hiện tại và tương lai. Chính là vô thức, trực giác thi nhân cho anh ta bảo bối có thể nhìn thẳng, nhìn thấu tận cốt lõi vấn đề, mà bằng lí trí ta không dễ nhìn thấy.

Trong “Tự do của Kazantzaki”, “Tinh thần Kafka”, “Giấc mơ của Kafka”, “Sách của Giô-na”… những suy tư triết học của Trương Đăng Dung cũng cho thấy những bất cập của những bức tường vô hình đã và đang dựng lên giữa con người với nhau, giữa con người với hạnh phúc của chính họ.

Những suy tư triết học này không bị nhàm chán, khô cứng, bởi nó sinh ra từ trải nghiệm, vui buồn, xúc cảm gắn với đời sống của thi nhân, và được anh ta viết ra bằng một thứ ngôn ngữ đẹp, đơn giản, nhưng truyền cảm.

3.

Bài thơ “Những con kiến” là cái nhìn từ trên cao về lịch sử loài người, về sinh tồn, về những tai họa, những cơn đại hồng thủy, về cái chết và sự sống tiếp nối, không ngừng chuyển động, không một giây dừng lại cho dù thương đau và bất hạnh không ngừng đổ xuống, ngẫu nhiên, không được báo trước. Nhà thơ viết: “Số phận và lo toan của kiến làm sao tôi hiểu được?/ Chỉ có kiến mới hiểu và chịu đựng được số phận của kiến mà thôi!”

Điều này không phải là một phát kiến. Cũng như những suy tư triết học trong thơ Trương Đăng Dung, không phải là những phát hiện mới, nhưng thấm đẫm nỗi niềm nhân sinh, thấm đẫm tình yêu với đời sống hiện tồn, cũng là duyên do của thơ.

Chết, sự kết nối thần bí của âm dương, đen trắng, bóng tối và ánh sáng, giữa linh hồn và thể xác vật chất luôn là sự hấp dẫn của những tâm hồn phương Đông. Một con người ở xứ sở này khi rời xa thế gian, không có nghĩa họ đã kết thúc đời sống. Mà họ sẽ tiếp tục tồn tại dưới một dạng thức khác. Họ vẫn hiện diện đâu đó trong không gian, quanh những người còn sống. Vẫn còn mang nỗi khắc khoải của chính họ trên cõi đời, những khắc khoải cũng đã cũ mèm, nhưng luôn mới trong những cuộc đời kẻ khác:

“Con thấy bố về đêm qua/ ngoài đồng xa/ hiu hắt trăng treo/ nhiều cái bóng vật vờ cùng đom đóm/ bố bảo dưới đất còn bom/ xương người chết/ lẫn với mìn chưa nổ/ con gọi bố/ chỉ nghe tiếng gió/ một vệt sáng vút qua/ sáng nay trong gương/ con bắt gặp ánh mắt buồn của bố/ tuổi năm mươi/ có gì mới hơn sau mỗi kiếp người?/ con hỏi bố/ thấy một người già đứng lặng lẽ nhìn con” (Giấc mơ của con).

Chết, ở góc độ khác, còn là sự hòa mình vào một đời sống khác. Chết là khi được thấy linh hồn con người bình đẳng với linh hồn vạn vật.

“Đêm vẫn ôm tôi im lặng/ như đất ôm xương người” (Đêm ở Roma).

“Tôi đi giữa mọi người, bên những hàng cây im lặng, lòng thầm biết ơn thân cây nào rồi đây ngã xuống, xẻ mình ra ôm tôi về cát bụi/ tôi không mang đến điều gì mới lạ, giữa quá khứ và tương lai tôi chỉ là đứa trẻ biết già.” (Tự bạch).

4.

Như lúc đầu tôi có nói về sự đơn giản, rõ ràng, mạch lạc của những hình ảnh trong thơ Trương Đăng Dung. Ở đó, dĩ nhiên phải nói đến ngôn ngữ, một cái vỏ ngôn ngữ ôm chứa trong nó một nội hàm thi ca của mà thi nhân muốn truyền tải.

Cái vỏ ngôn ngữ thơ Trương Đăng Dung sử dụng, không hề tìm kiếm sự dị biệt, khác lạ, không thấy bàn tay của sự kỳ công đẽo gọt, tỉa tót. Đó cũng chính là sự thuận lợi cho người đọc tiếp cận dễ hơn với thế giới thi ca của anh. Ngôn ngữ, nó chỉ thực sự lợi hại khi là một thể thống nhất hữu cơ với cái nó biểu đạt.

Thế nhưng điều đáng ngạc nhiên ở đây, là trong một vỏ ngôn ngữ cực kỳ thuần khiết, mạch lạc, thơ Trương Đăng Dung lại chứa đầy sự huyền bí.

Sự huyền bí, biên ảo giữa cái có và cái không, cái hư và cái thực, sự trộn lẫn, hoán đổi giữa những thời gian khác nhau, không gian khác nhau trong những dòng chảy của đời người, của lịch sử tạo nên hấp dẫn lôi cuốn trong không gian thơ của thi sĩ.

“Anh cảm nhận thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này/ giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay” (Có thể).

“Anh nhìn vào mắt em/ thấy hình anh ở đấy/ nếu mắt em khép lại/ ảnh hình kia chỉ còn lại trong em/ anh không còn anh trong hiện tại/ chỉ thấy em với những hình nhưng ảnh/ của mùa hè đang qua/ một góc vườn và mấy khóm hoa” (Ảo ảnh).

Trong bài thơ “Trong quán cà phê piano”, sự nối tiếp bí ẩn của sự sống từ một cái chết là một phát hiện: trong quán cà phê có một nghệ sĩ dương cầm đã mất. Nhưng đêm đêm, những người đến đây uống cà phê, trong họ nghệ sĩ vẫn còn sống bằng tấm tình, nỗi niềm của anh gửi vào tiếng đàn mà họ từng nghe, từng yêu.

Hay thi sĩ khi nghĩ về cái chết của mình sẽ được một cái cây nào đó ôm mình vào lòng.

Hay khi thi sĩ nói rằng, “Anh không thấy thời gian trôi/ thời gian ở trong máu không lời/ ẩn mình trong khóe mắt làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi” (Anh không thấy thời gian trôi).

Sự bí ẩn, huyền hoặc của thơ Trương Đăng Dung còn ở chỗ, thi sĩ đã vượt thoát khỏi cái cụ thể trực quan để đạt đến tính phổ quát, biểu tượng.

Thời gian, không gian, sự sống, cái chết, đức tin, nỗi đau của kiếp người... ở Trương Đăng Dung đều là ẩn dụ, hoán dụ, hay là biểu tượng, vì vậy, nó mang tính phổ quát. Tựa đề tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” cũng là một ví dụ cho ý kiến này.

Điều cuối cùng tôi muốn nói tới về thơ Trương Đăng Dung, đó là, với tất cả những điều trên, Trương Đăng Dung đã thực sự tạo dựng được một thế giới thơ của riêng mình, với một vẻ đẹp không trộn lẫn. Đó là điều mà bất cứ một người làm thơ nào cũng mong ước đạt đến.

Hà nội ngày 18/8/2018
G.V  
(TCSH354/08-2018)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...