Thơ thế hệ thứ tư

15:33 04/05/2009
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

Dự kiến táo bạo này được hình thành nhân dịp các nhà thơ trẻ gặp nhau trong Hội nghị nhà văn trẻ toàn quốc (8.2001) do Hội Nhà văn VN tổ chức lần 6 tại Hà Nội. Cùng thời gian này, tôi được biết có thêm 3 tuyển thơ trẻ do 3 nhóm khác tiến hành khá uy tín. Một nhóm do 2 nhà thơ "chủ soái" trên thi đàn hiện nay là nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo (Người bảo vệ đến cùng những giá trị mới của thơ trẻ kể cả khi bị lăng nhục) và nhà thơ Hoàng Hưng (Một con "Ngựa Biển", một kẻ "Đi Tìm Mặt" mình trong cuộc cách tân thi (ca). Theo nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, ông sẽ có cách làm riêng để đưa ra được những gương mặt mới cho nền thi ca VN. Công việc này ông đã rải rác làm từ lâu nay và đã nếm chịu không ít búa rìu từ dư luận. Nhóm thứ 2 gồm 3 nhà thơ trẻ hơn: Mai Văn Phấn (Hải Phòng), Ngô Tự Lập (Hà Nội) và Trần Tiến Dũng (Sài Gòn). Nhóm này "toả rộng" đối tượng. Không câu nệ vào tuổi tác mà chỉ tập trung kiếm tìm những gương mặt thơ "cách tân hình thức". Tuyển "Viết Thơ" (Nxb Thanh Niên 2001 gây tranh cãi, tốn không ít giấy mực của báo chí vừa qua (tiêu biểu như ở tờ Người Hà Nội) là thể nghiệm đầu tiên của họ. Nhóm thứ 3 độc nhất... 1 người là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Theo tiết lộ của anh, Nguyễn Quang Thiều chủ đạo làm 1 tuyển riêng. Anh giới thiệu khoảng 10 thi sĩ trẻ VN từ góc nhìn của mình. Bên cạnh thơ chọn của tác giả là những chuyên luận kĩ càng (có thể lên đến 30, 40 trang) anh viết về thơ họ. Từ cách làm độc đáo này hy vọng thi sĩ "châu thổ mới" sẽ đem đến nhiều bất ngờ cho thơ trẻ. Bên cạnh các tuyển thơ trẻ đang tiến hành trong nước thì đã có việc trích dịch, giới thiệu thơ trẻ VN ra nước ngoài của các nhà văn, nhà thơ Ngô Tự Lập, Lý Lan mà đặc biệt là nhà thơ, dịch giả người Mỹ gốc Việt: Đinh Linh. Đinh Linh đã từng dịch khá nhiều hiện tượng đặc sắc của văn học VN với người yêu văn học Mỹ như truyện ngắn Bảo  Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, thơ Nguyễn Quang Thiều, Phùng Cung. Đặc biệt cả thơ Hồ Xuân Hương. Đầu tháng 2.2002 này, anh tiếp tục giới thiệu thơ của 3 nhà thơ trẻ VN là Văn Cầm Hải, Nguyễn Quốc Chánh và Phan Nhiên Hạo.

2- Những giá trị nào đã thực sự được đặt ra trong thơ trẻ? Qua các cách làm, tuyển chọn, giới thiệu trong và ngoài nước cho thấy trẻ tuổi chưa hẳn là đối tượng.  Thơ VN với nhiều cột mốc, giai đoạn đã có nhiều đột phá, cách tân cả nội dung lẫn hình thức. Không kể thành tựu lớn, rực rỡ của thơ mới (vì thành công này đã in một dấu ấn sâu đậm vào văn học sử) thì các thể nghiệm thơ tiếp theo ít được ghi nhận thành một giai đoạn, thậm chí một trào lưu. Với các nhóm Thơ Chui, Thơ Vỉa Hè, Dạ đài... của các nhà thơ Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Đinh Hùng, Dương Tường, Phùng Cung, Lê Đạt, sau hơn một chút xíu là Hoàng Hưng, Trúc Thông, Thanh Thảo, Tạ Vũ... trước đây đều để lại sức ám ảnh dai dẳng về một "hiện tượng thơ" "thoát lề" xã hội. Tuy nhiên nhìn trở lại khách quan thi ca VN "trẻ" hơn rất nhiều với thời gian này. Sự tìm tòi, nỗ lực về hình thức, bùng nổ sức mang chứa cá nhân... Thơ trở thành "một lỗ thủng" (chữ của nhà thơ Thanh Thảo) giải phóng mọi năng lượng nén trọng trong ức chế tâm hồn con người. Một là thơ, "Thơ như chưa bao giờ, ngay bây giờ hoặc không lúc nào", hai là cái chết (Đúng nghĩa của một thi sĩ). Trong tình thế hiểm nghèo ấy, thơ không còn là sự lựa chọn nếu như nó không phải là một phản đề, nổ cầu chì, phá bỏ mọi ranh giới, đề tài, trách nhiệm mà thành kiến áp đặt lên cho Thơ.

Thơ trẻ không chỉ ám chỉ những người trẻ làm thơ mà thơ mang đến "một trạng thái sống mới" (chữ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo). Đó là thơ có khuynh hướng biểu biện, mang tinh thần của một thời đại. Tôi rất tâm đắc một tứ thơ của Antonio Porchia:- "Tất cả những gì thay đổi để lại sau mình một vực thẳm sâu ở nơi thay đổi". Tính phát hiện, dò tìm "vịn câu thơ mà đứng dậy" (Phùng Quán) cho thấy sự không yên ổn trong tinh thần sáng tạo của nhà thơ. "Chúng ta làm tổ trong da thịt mình" (Nguyễn Quang Thiều). Cuộc đối thoại, tìm tới kẻ khác mãi mãi không có điểm dừng, cũng như biên giới của thơ bao giờ cũng được mở. Sự cộng hưởng, giao tiếp của các trào lưu đẩy thơ tới giáp ranh của triển hạn: "Tôi phá vỡ các trường phái để dựng thành một trường phái..." Người đọc còn tìm thấy "dấu vết" mới, "trẻ" ở trong thơ các nhà thơ thế hệ thứ ba không còn trẻ nữa như Nguyễn Khắc Thạch, Bùi Hoằng Vị, Phùng Tấn Đông, Nguyễn Đạt, Nguyễn Quốc Chánh, Thận Nhiên, Đoàn Huy Giao... Những hình tượng "Dòng Sông Một Bờ", "Mưa Hai Mặt" (Nguyễn Khắc Thạch), "Căn cước của ẩn dụ", "Cơn Mê Đầm Lầy" (Nguyễn Quốc Chánh)... không còn ngợi ca chung chung hay sáo mòn, đẹp, tình cảm một cách vô dụng. Thơ như bứt lên từ gốc rễ của suy tưởng. Hình ảnh, ngôn từ "cắt lớp" vào nhau, thức tỉnh trong ý niệm mới, lan tỏa sâu xa.

3. Thơ trẻ của các nhà thơ "Thế hệ thứ tư" hôm nay trên bề mặt chung cùng lúc đạt được cả 2 phương diện: Trẻ về tuổi đời (29,30 tuổi trở xuống), và trẻ về thi pháp thơ. Nhưng như tôi đã trình bày ở trên (và cả bài viết "Một góc nhìn vào thơ Việt Nam từ một thế hệ" đăng trên tạp chí Tia Sáng số 1.2002), sự mới mẻ của thơ họ không có gì xa lạ, tách rời hay phản bội cha anh họ mà còn khởi nguồn, kế thừa từ một dòng chảy "đứt đoạn" nào đấy. Dòng chảy ấy có thể âm thầm, không chính thống nhưng mỗi thi sĩ đều phản tỉnh lương tâm, nói tiếng của riêng mình, tiếng nói cá nhân, có chính kiến chứ không hoà theo một giọng hỗn hợp, bầy đàn, trơn tru của cộng đồng thơ. Họ làm được điều ấy, tạo được diễn đàn về điều ấy ngoài tài năng còn những thuận lợi khách quan của xã hội. Ở Hội nghị Nhà văn trẻ VI-2001, trong hội thảo "Thơ trẻ với tâm hồn Việt Nam" tại Hoà Bình nhà thơ Hữu Thỉnh có phát biểu đại ý "Chúng tôi (có lẽ là Hội Nhà văn VN) hoàn toàn ủng hộ mọi sự tìm kiếm, mọi thay đổi, cách tân về thơ của các bạn. Mỗi thế hệ đều cần có đóng góp của riêng mình..." Ngay bản thân tôi khi đọc thơ của ông Tổng thư kí Hội Nhà văn VN, tôi cũng thấy khá mới mẻ, hình tượng, đặc biệt là "Thơ viết ở Biển" hay nhiều bài khác trong tập "Thư mùa đông". Quyền nỗ lực cho thơ không thuộc về ai, thế hệ nào mà chính là phẩm chất thi sĩ của họ.

Những yêu cầu nào đặt ra của "Thơ thế hệ thứ tư", tinh thần Văn nghệ Mới? Đề cao vai trò thơ, khước từ cái cũ, thơ nhuồn nhuộc, nhập nhờ, đủng đỉnh theo một thói quen, rập khuôn nhàm chán. Những tay súng thơ với những khoảng ngắm lạ bắn vào đường biên hình thức, những giá trị hạn hẹp mà Thơ Mới vô hình đặt ra, nghiễm nhiên ngự trị gần thế kỉ. (Tính đến thời khắc bây giờ và chưa biết còn kéo dài bao lâu nữa). Thơ Mới với những tên tuổi bất tử Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Tế Hanh... đã đi vào ngôi đền Thi ca. Từ tài năng cộng với sở học, rút tỉa tinh hoa của thi ca Pháp, pha trộn 3 trường phái (siêu thực, tượng trưng, lãng mạn) họ đã dựng nên thành tựu "Thơ Mới" khai tử thơ Đường luật trước đó. Tuy nhiên lại tích chứa một phản đề bên cạnh "đỉnh thơ" của thế hệ mình họ đã ném ra những cái lưới quá lớn mà các thế hệ "đàn em" làm thơ tiếp theo hầu hết là những "con cá" mắc và giãy dụa trong lưới họ. Những con cá có thể khoe khoang với nhau sự óng ánh li ti, thích mắt của vài cái vảy nhỏ trên đuôi nhưng tất cả đều không tin số phận mình được cất chung một mẻ lưới. Rốt cuộc thì trên đại dương thơ, "Cá" thì quá nhiều mà chẳng có bấy nhiêu "Ngư Ông" thơ câu Cá cả.

Thơ trẻ, Văn nghệ Mới hay Thơ thế hệ thứ tư còn là cuộc tuyên chiến vào tư duy cảm tính. Tại sao thơ chỉ đề cao Mỹ + Cảm + Hiện Thực (1) mà không dấn sâu vào các lãnh địa khác phiêu lưu và quyến rũ không kém là Cái phức tạp + siêu hình + logic?(2). Thực chất cả hai phương trình (1) và (2) cũng chỉ là 2 mặt của vấn đề nhưng rõ ràng đã khai phóng, bộc lộ một thế giới hiểm trở, một ý thức mới sâu xa hơn. Chúng ta đang cố bắt kịp nhịp thời đại bằng cách đẩy mạnh công cuộc khoa học Vitin học công nghệ thì tại sao thơ hiện đại của chúng ta chỉ là những hơi thở xa xôi, hoang mang bên những cánh đồng lúa? Hay các nhà thơ ngơ ngác giữa ngã ba đường với con diều lục bát thả trên tay? Dù các nhà thơ muốn trì kéo bao nhiêu thì thời đại vẫn không chờ đợi. Thông tin văn học qua mạng Internet, sách báo ngoại ngữ, kĩ thuật tin học như những cơn bão  lớn thổi vào nền thi ca Tiểu Nông. Nơi ẩn nấp cuối cùng của những thi sĩ không đổi thay chính mình để lên đường, vẫn can tâm mơ tưởng một "chỗ ngồi" yên ổn trên chiếu văn (dù nó đã cũ mèm, mục ruỗng), đặt mông rung đùi vênh váo kênh kiệu kiểu ông Hương ông Xã. "Ta về ta tắm ao ta" là một thiện chí nhưng chậm trễ thông tin, giả mù, "ngủ quên" trước các trào lưu mới của văn học, thi ca thế giới (tiêu biểu như Văn học trên mạng, Hậu hiện đại, văn học Hypertext, Hyperfiction...) can tâm bơi lội trong cái "Ao Nhà" "dù trong dù đục" là phản trí thức, phản sáng tạo.

Cập nhật tri thức với những thuận lợi, yêu cầu của xã hội đương đại là điểm phác lộ đang gây chú ý của thơ trẻ - Thế hệ thứ tư. Đó là cái tôi tính Dục-Bản Nguyên của Vi Thuỳ Linh (Qua 2 tập KhátLinh), theo đuổi hình tượng của Văn Cầm Hải, tiếng nói dự cảm giữa nhà thơ đối thoại trực diện với những vấn đề hỗn loạn xung quanh mình của Phan Huyền Thư, bùng vỡ tinh tế khi yêu của Ly Hoàng Ly, Lê Thị Mỹ Ý, cắt lát giữa truyền thống - hiện đại, bảo vệ tâm hồn quê kiểng của Nguyễn Quyến, theo đuổi sức gợi của lý trí, tìm kiếm những phản đề từ triết học của Vương Huy, Phan Bá Thọ, thông minh, nhạy cảm của Nguyễn Vĩnh Tiến, sẵn sàng đối thoại với những vấn đề xã hội của Lý Đợi... tất cả hoà ca với sự lên ngôi của Thơ Tự Do - thơ với những cuộc kiếm tìm từ bản thể chính mình, tiếp nối một cách bản lĩnh tinh thần sáng tạo các thế hệ trước. Tất cả cũng chỉ để làm nên chính họ - Thế hệ thứ tư của thi ca VN. Đó là điều rất đáng để đặt niềm tin. Đợi chờ và hy vọng.

Đà nẵng-Huế, 3.2002
N.H.H.M
(169/03-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.