Thơ thế hệ thứ tư

15:33 04/05/2009
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

Dự kiến táo bạo này được hình thành nhân dịp các nhà thơ trẻ gặp nhau trong Hội nghị nhà văn trẻ toàn quốc (8.2001) do Hội Nhà văn VN tổ chức lần 6 tại Hà Nội. Cùng thời gian này, tôi được biết có thêm 3 tuyển thơ trẻ do 3 nhóm khác tiến hành khá uy tín. Một nhóm do 2 nhà thơ "chủ soái" trên thi đàn hiện nay là nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo (Người bảo vệ đến cùng những giá trị mới của thơ trẻ kể cả khi bị lăng nhục) và nhà thơ Hoàng Hưng (Một con "Ngựa Biển", một kẻ "Đi Tìm Mặt" mình trong cuộc cách tân thi (ca). Theo nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, ông sẽ có cách làm riêng để đưa ra được những gương mặt mới cho nền thi ca VN. Công việc này ông đã rải rác làm từ lâu nay và đã nếm chịu không ít búa rìu từ dư luận. Nhóm thứ 2 gồm 3 nhà thơ trẻ hơn: Mai Văn Phấn (Hải Phòng), Ngô Tự Lập (Hà Nội) và Trần Tiến Dũng (Sài Gòn). Nhóm này "toả rộng" đối tượng. Không câu nệ vào tuổi tác mà chỉ tập trung kiếm tìm những gương mặt thơ "cách tân hình thức". Tuyển "Viết Thơ" (Nxb Thanh Niên 2001 gây tranh cãi, tốn không ít giấy mực của báo chí vừa qua (tiêu biểu như ở tờ Người Hà Nội) là thể nghiệm đầu tiên của họ. Nhóm thứ 3 độc nhất... 1 người là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Theo tiết lộ của anh, Nguyễn Quang Thiều chủ đạo làm 1 tuyển riêng. Anh giới thiệu khoảng 10 thi sĩ trẻ VN từ góc nhìn của mình. Bên cạnh thơ chọn của tác giả là những chuyên luận kĩ càng (có thể lên đến 30, 40 trang) anh viết về thơ họ. Từ cách làm độc đáo này hy vọng thi sĩ "châu thổ mới" sẽ đem đến nhiều bất ngờ cho thơ trẻ. Bên cạnh các tuyển thơ trẻ đang tiến hành trong nước thì đã có việc trích dịch, giới thiệu thơ trẻ VN ra nước ngoài của các nhà văn, nhà thơ Ngô Tự Lập, Lý Lan mà đặc biệt là nhà thơ, dịch giả người Mỹ gốc Việt: Đinh Linh. Đinh Linh đã từng dịch khá nhiều hiện tượng đặc sắc của văn học VN với người yêu văn học Mỹ như truyện ngắn Bảo  Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, thơ Nguyễn Quang Thiều, Phùng Cung. Đặc biệt cả thơ Hồ Xuân Hương. Đầu tháng 2.2002 này, anh tiếp tục giới thiệu thơ của 3 nhà thơ trẻ VN là Văn Cầm Hải, Nguyễn Quốc Chánh và Phan Nhiên Hạo.

2- Những giá trị nào đã thực sự được đặt ra trong thơ trẻ? Qua các cách làm, tuyển chọn, giới thiệu trong và ngoài nước cho thấy trẻ tuổi chưa hẳn là đối tượng.  Thơ VN với nhiều cột mốc, giai đoạn đã có nhiều đột phá, cách tân cả nội dung lẫn hình thức. Không kể thành tựu lớn, rực rỡ của thơ mới (vì thành công này đã in một dấu ấn sâu đậm vào văn học sử) thì các thể nghiệm thơ tiếp theo ít được ghi nhận thành một giai đoạn, thậm chí một trào lưu. Với các nhóm Thơ Chui, Thơ Vỉa Hè, Dạ đài... của các nhà thơ Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Đinh Hùng, Dương Tường, Phùng Cung, Lê Đạt, sau hơn một chút xíu là Hoàng Hưng, Trúc Thông, Thanh Thảo, Tạ Vũ... trước đây đều để lại sức ám ảnh dai dẳng về một "hiện tượng thơ" "thoát lề" xã hội. Tuy nhiên nhìn trở lại khách quan thi ca VN "trẻ" hơn rất nhiều với thời gian này. Sự tìm tòi, nỗ lực về hình thức, bùng nổ sức mang chứa cá nhân... Thơ trở thành "một lỗ thủng" (chữ của nhà thơ Thanh Thảo) giải phóng mọi năng lượng nén trọng trong ức chế tâm hồn con người. Một là thơ, "Thơ như chưa bao giờ, ngay bây giờ hoặc không lúc nào", hai là cái chết (Đúng nghĩa của một thi sĩ). Trong tình thế hiểm nghèo ấy, thơ không còn là sự lựa chọn nếu như nó không phải là một phản đề, nổ cầu chì, phá bỏ mọi ranh giới, đề tài, trách nhiệm mà thành kiến áp đặt lên cho Thơ.

Thơ trẻ không chỉ ám chỉ những người trẻ làm thơ mà thơ mang đến "một trạng thái sống mới" (chữ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo). Đó là thơ có khuynh hướng biểu biện, mang tinh thần của một thời đại. Tôi rất tâm đắc một tứ thơ của Antonio Porchia:- "Tất cả những gì thay đổi để lại sau mình một vực thẳm sâu ở nơi thay đổi". Tính phát hiện, dò tìm "vịn câu thơ mà đứng dậy" (Phùng Quán) cho thấy sự không yên ổn trong tinh thần sáng tạo của nhà thơ. "Chúng ta làm tổ trong da thịt mình" (Nguyễn Quang Thiều). Cuộc đối thoại, tìm tới kẻ khác mãi mãi không có điểm dừng, cũng như biên giới của thơ bao giờ cũng được mở. Sự cộng hưởng, giao tiếp của các trào lưu đẩy thơ tới giáp ranh của triển hạn: "Tôi phá vỡ các trường phái để dựng thành một trường phái..." Người đọc còn tìm thấy "dấu vết" mới, "trẻ" ở trong thơ các nhà thơ thế hệ thứ ba không còn trẻ nữa như Nguyễn Khắc Thạch, Bùi Hoằng Vị, Phùng Tấn Đông, Nguyễn Đạt, Nguyễn Quốc Chánh, Thận Nhiên, Đoàn Huy Giao... Những hình tượng "Dòng Sông Một Bờ", "Mưa Hai Mặt" (Nguyễn Khắc Thạch), "Căn cước của ẩn dụ", "Cơn Mê Đầm Lầy" (Nguyễn Quốc Chánh)... không còn ngợi ca chung chung hay sáo mòn, đẹp, tình cảm một cách vô dụng. Thơ như bứt lên từ gốc rễ của suy tưởng. Hình ảnh, ngôn từ "cắt lớp" vào nhau, thức tỉnh trong ý niệm mới, lan tỏa sâu xa.

3. Thơ trẻ của các nhà thơ "Thế hệ thứ tư" hôm nay trên bề mặt chung cùng lúc đạt được cả 2 phương diện: Trẻ về tuổi đời (29,30 tuổi trở xuống), và trẻ về thi pháp thơ. Nhưng như tôi đã trình bày ở trên (và cả bài viết "Một góc nhìn vào thơ Việt Nam từ một thế hệ" đăng trên tạp chí Tia Sáng số 1.2002), sự mới mẻ của thơ họ không có gì xa lạ, tách rời hay phản bội cha anh họ mà còn khởi nguồn, kế thừa từ một dòng chảy "đứt đoạn" nào đấy. Dòng chảy ấy có thể âm thầm, không chính thống nhưng mỗi thi sĩ đều phản tỉnh lương tâm, nói tiếng của riêng mình, tiếng nói cá nhân, có chính kiến chứ không hoà theo một giọng hỗn hợp, bầy đàn, trơn tru của cộng đồng thơ. Họ làm được điều ấy, tạo được diễn đàn về điều ấy ngoài tài năng còn những thuận lợi khách quan của xã hội. Ở Hội nghị Nhà văn trẻ VI-2001, trong hội thảo "Thơ trẻ với tâm hồn Việt Nam" tại Hoà Bình nhà thơ Hữu Thỉnh có phát biểu đại ý "Chúng tôi (có lẽ là Hội Nhà văn VN) hoàn toàn ủng hộ mọi sự tìm kiếm, mọi thay đổi, cách tân về thơ của các bạn. Mỗi thế hệ đều cần có đóng góp của riêng mình..." Ngay bản thân tôi khi đọc thơ của ông Tổng thư kí Hội Nhà văn VN, tôi cũng thấy khá mới mẻ, hình tượng, đặc biệt là "Thơ viết ở Biển" hay nhiều bài khác trong tập "Thư mùa đông". Quyền nỗ lực cho thơ không thuộc về ai, thế hệ nào mà chính là phẩm chất thi sĩ của họ.

Những yêu cầu nào đặt ra của "Thơ thế hệ thứ tư", tinh thần Văn nghệ Mới? Đề cao vai trò thơ, khước từ cái cũ, thơ nhuồn nhuộc, nhập nhờ, đủng đỉnh theo một thói quen, rập khuôn nhàm chán. Những tay súng thơ với những khoảng ngắm lạ bắn vào đường biên hình thức, những giá trị hạn hẹp mà Thơ Mới vô hình đặt ra, nghiễm nhiên ngự trị gần thế kỉ. (Tính đến thời khắc bây giờ và chưa biết còn kéo dài bao lâu nữa). Thơ Mới với những tên tuổi bất tử Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Tế Hanh... đã đi vào ngôi đền Thi ca. Từ tài năng cộng với sở học, rút tỉa tinh hoa của thi ca Pháp, pha trộn 3 trường phái (siêu thực, tượng trưng, lãng mạn) họ đã dựng nên thành tựu "Thơ Mới" khai tử thơ Đường luật trước đó. Tuy nhiên lại tích chứa một phản đề bên cạnh "đỉnh thơ" của thế hệ mình họ đã ném ra những cái lưới quá lớn mà các thế hệ "đàn em" làm thơ tiếp theo hầu hết là những "con cá" mắc và giãy dụa trong lưới họ. Những con cá có thể khoe khoang với nhau sự óng ánh li ti, thích mắt của vài cái vảy nhỏ trên đuôi nhưng tất cả đều không tin số phận mình được cất chung một mẻ lưới. Rốt cuộc thì trên đại dương thơ, "Cá" thì quá nhiều mà chẳng có bấy nhiêu "Ngư Ông" thơ câu Cá cả.

Thơ trẻ, Văn nghệ Mới hay Thơ thế hệ thứ tư còn là cuộc tuyên chiến vào tư duy cảm tính. Tại sao thơ chỉ đề cao Mỹ + Cảm + Hiện Thực (1) mà không dấn sâu vào các lãnh địa khác phiêu lưu và quyến rũ không kém là Cái phức tạp + siêu hình + logic?(2). Thực chất cả hai phương trình (1) và (2) cũng chỉ là 2 mặt của vấn đề nhưng rõ ràng đã khai phóng, bộc lộ một thế giới hiểm trở, một ý thức mới sâu xa hơn. Chúng ta đang cố bắt kịp nhịp thời đại bằng cách đẩy mạnh công cuộc khoa học Vitin học công nghệ thì tại sao thơ hiện đại của chúng ta chỉ là những hơi thở xa xôi, hoang mang bên những cánh đồng lúa? Hay các nhà thơ ngơ ngác giữa ngã ba đường với con diều lục bát thả trên tay? Dù các nhà thơ muốn trì kéo bao nhiêu thì thời đại vẫn không chờ đợi. Thông tin văn học qua mạng Internet, sách báo ngoại ngữ, kĩ thuật tin học như những cơn bão  lớn thổi vào nền thi ca Tiểu Nông. Nơi ẩn nấp cuối cùng của những thi sĩ không đổi thay chính mình để lên đường, vẫn can tâm mơ tưởng một "chỗ ngồi" yên ổn trên chiếu văn (dù nó đã cũ mèm, mục ruỗng), đặt mông rung đùi vênh váo kênh kiệu kiểu ông Hương ông Xã. "Ta về ta tắm ao ta" là một thiện chí nhưng chậm trễ thông tin, giả mù, "ngủ quên" trước các trào lưu mới của văn học, thi ca thế giới (tiêu biểu như Văn học trên mạng, Hậu hiện đại, văn học Hypertext, Hyperfiction...) can tâm bơi lội trong cái "Ao Nhà" "dù trong dù đục" là phản trí thức, phản sáng tạo.

Cập nhật tri thức với những thuận lợi, yêu cầu của xã hội đương đại là điểm phác lộ đang gây chú ý của thơ trẻ - Thế hệ thứ tư. Đó là cái tôi tính Dục-Bản Nguyên của Vi Thuỳ Linh (Qua 2 tập KhátLinh), theo đuổi hình tượng của Văn Cầm Hải, tiếng nói dự cảm giữa nhà thơ đối thoại trực diện với những vấn đề hỗn loạn xung quanh mình của Phan Huyền Thư, bùng vỡ tinh tế khi yêu của Ly Hoàng Ly, Lê Thị Mỹ Ý, cắt lát giữa truyền thống - hiện đại, bảo vệ tâm hồn quê kiểng của Nguyễn Quyến, theo đuổi sức gợi của lý trí, tìm kiếm những phản đề từ triết học của Vương Huy, Phan Bá Thọ, thông minh, nhạy cảm của Nguyễn Vĩnh Tiến, sẵn sàng đối thoại với những vấn đề xã hội của Lý Đợi... tất cả hoà ca với sự lên ngôi của Thơ Tự Do - thơ với những cuộc kiếm tìm từ bản thể chính mình, tiếp nối một cách bản lĩnh tinh thần sáng tạo các thế hệ trước. Tất cả cũng chỉ để làm nên chính họ - Thế hệ thứ tư của thi ca VN. Đó là điều rất đáng để đặt niềm tin. Đợi chờ và hy vọng.

Đà nẵng-Huế, 3.2002
N.H.H.M
(169/03-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.