Nguyễn Hoàng Thọ - Phùng Tấn Đông - Đỗ Quyên - Hà Văn Sỹ
Minh họa: Nhím
NGUYỄN HOÀNG THỌ
Buổi chiều và những người bạn
Tặng những người bạn Huế 12/4/1972
Thần mặt trời gom những vệt nắng cuối ngày
vào chiếc rương hoàng hôn không có đáy
cuộc đụng độ giữa chim non và mãnh thú
diễn ra ác liệt bên ngôi trường cổ…
Mưa đêm và bão tố
sương sớm và trăng non
mất và còn
giao thoa trên mắt người trầm tích
Người họa sĩ trở về mang theo chiếc lông vũ
vẽ trong bóng đêm xa lắc mặt trời
vẽ ánh trăng khuya nguyên thủy phận người
những bức tranh không màu
trong veo
mộng mị
Những người đi về sau
bận bịu áo cơm
mỏi mòn triết lý
ghi những trang văn tím rịm mắt môi mình.
PHÙNG TẤN ĐÔNG
Lúc này ở đây
“…giữ kỷ niệm của sóng trong nhà kho của muối”
(René Char)
lúc này ở đây anh muốn la lớn anh đang bị nhốt
trong những cao ốc trong đám đông những bàn tiệc
rượu thịt ê hề
trong một bài diễn văn dài nhân danh này nọ không
có bạn bè không có em có anh trong đó
mùi nước hoa đã đến lúc gây ô nhiễm
anh ngột thở trong áo váy diêm dúa
lúc này ở đây anh muốn nói anh thèm vi vu một giọt
nước trên đọt cây cao rơi cuống cuồng bập bênh với
gió
những xanh biếc chớp sáng
những cú liệng đớp của chim bói cá
lúc chân trời sôi lên cơn bão
thà vậy còn hơn những lặng im mỏi mệt một hải
cảng đóng băng
anh nói anh thèm nằm duỗi chân bên em
nghe thân thể em dậy sóng
ký ức mặn đắng trong anh hãy yêu nhau thôi đã đến
giờ
lúc này ở đây anh muốn nói đã đến lúc về yêu trở lại
một mùa thu trên vòm cao gió thổi
những hạt mưa óng ả không lời
anh muốn tan trong máu em
để một đời câm nín
không nói không bao giờ nói
chia biệt làm anh đau
về yêu một rẻo mây xa một bờ nước vắng
những năm tháng đường xa mỏi mệt
những tuổi tác già nua bệnh tật
quên đi như từng quên
một sớm thái hòa em đến
trên cao mù mây một tia nắng rớt
con chim sâu giương mắt nhìn anh
xanh thăm thẳm màu trời
như chưa như chưa mưa khuya đêm dài đường xa
bóng đổ
ĐỖ QUYÊN
Lá thư chiều nay
Em viết thư cho tôi
Giữa tháng ngày sinh nở
Em mang con với người
Với tôi tình dang dở…
Chỉ dăm lời thăm hỏi
Gần tháng trời mới xong
Dưới cùng - Dòng tái bút:
“Con em vừa lọt lòng!”
Lá thư này em viết
Trong nỗi đau đời người
Còn lá thư lần cuối
Một đời duyên chia phôi
Ngàn lá thư đã đọc
Nghìn lá sẽ tới tay
Có dâng niềm xúc động
Như lá thư chiều nay?
HÀ VĂN SỸ
Nụ hôn
Nụ hôn xưa dẫu vội vàng
Sao em đành đoạn sang ngang ngậm
buồn?
Nụ hôn chiều ấy mưa tuôn
Đất trời ướt một thiên đường đôi ta
Nụ hôn chưa thể xóa nhòa
Chẳng say sao lại vỡ òa cuộc vui?
Nụ hôn chiều nhớ em tôi
Ngây thơ vương một góc trời... đầy hoa!
Nụ hôn chiều ấy nào xa
Tóc thề xưa với nhạt nhòa thu bay
Nụ hôn gửi gió tìm mây
Sợi buồn níu lại vạn ngày... nhớ em.
(SHSDB25/06-2017)
PHẠM XUÂN PHỤNG
Trung Quốc, hãy nhớ!
NGUYỄN NGỌC PHÚ
Tổ quốc tôi ba nghìn cây số biển
NGUYỄN LOAN
Không thể nào yên
NGUYỄN THÁI HƯNG
Đất ra đảo
Hải Bằng - Nguyễn Văn Dinh - Nguyễn Khắc Thạch - Phạm Tấn Hầu - Trần Bá Đại Dương - Tôn Nữ Ngọc Hoa
Lưu Thị Bạch Liễu - Nguyễn Thuấn - Ngô Thị Ý Nhi - Nguyễn Đạt - Nguyễn Thiền Nghi
Ngọc Biển - Bích Hải - Nguyễn Thị Duyên Sanh - Đông Hương - Hồng Vinh
Kiều Công Luận - Phan Công Tuyên - Hoàng Lê Diễm Trang - Lê Hào - Trần Hương Giang - Nguyễn Hoàng Dương
PHẠM VĂN VŨ
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO
Từ Hoài Tấn có thơ xuất hiện khá sớm trên báo Văn (miền Nam) khoảng giữa năm 1960. Ngay từ buổi đầu, thơ Từ Hoài Tấn đã có một giọng điệu riêng. Và khác với một số người trong nhóm Nội Dung ngày ấy (như Thái Ngọc San, Mường Mán, Nguyễn Miên Thảo…), Từ Hoài Tấn có vẽ lặng lẽ như sự tách biệt của một con đường độc đạo để đi vào khu rừng nội tâm.
HỒ ĐẮC THIẾU ANH
*Ghi nhớ ngày tiễn đưa Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 01-04-2001
Lê Từ Hiển - Nguyễn Như Huyền
Hồ Đắc Thiếu Anh - Nguyễn Hoàng Thọ - Trần Xuân An - Trần Hữu Dũng - Dương Thành Vũ - Nguyễn Hoàng Anh Thư
NGUYỄN HƯNG HẢI
Trần Vàng Sao - Ngô Minh - Phùng Tấn Đông - Nguyễn Văn Phương - Lê Ánh
Phùng Tấn Đông - Bạch Diệp - Nguyễn Man Kim - Đoàn Mạnh Phương - Ngô Công Tấn - Vĩnh Nguyên - Phan Trung Thành - Lê Hưng Tiến - Nhất Lâm - Châu Thu Hà - Nguyên Tiêu
Nguyễn Đức Quang - Đặng Thị Vân Khanh - Tuyết Nga - Thạch Quỳ
LTS: Phùng Quán sinh năm 1932, quê xã Thủy Dương thành phố Huế, gia nhập Vệ Quốc đoàn năm 13 tuổi (1-1946) làm liên lạc, chiến sĩ trinh sát trung đoàn 101.
Đinh Thu - Thái Kim Lan - Ngàn Thương - Hoàng Thị Thương - Nguyễn Miên Thượng - Nguyễn Loan - Vũ Trọng Quang - Trần Hữu Lục - Lê Huy Quang - Đỗ Hàn - Mai Văn Hoan - Trần Tịnh Yên