Nguyễn Hoàng Thọ - Nhất Lâm - Nguyễn Thị Việt Hằng - Phan Lệ Dung
Minh họa: Nhím
NGUYỄN HOÀNG THỌ
Phía chiêm bao
Rồi những tách cà phê
Cùng thành xưa cũ
Ta chỉ còn vị đắng thời gian
Em tích góp sắc hương đợi mùa trái ngọt
Ta cúi chào giọt nắng phía thu xa
Và cứ giữ thói quen
Mỗi sớm mai đến ngồi đâu đấy
Đôi mắt chờ lấp lánh mật phù sa
Trong sâu thẳm chỉ còn em, dù là mộng tưởng
Khắc một lời tinh cốt nhói lòng ta
Rồi đông đến
Ta lặng nhìn con chim hót
Phút giao mùa cố níu hạt sương chao
Nghe đằm thắm lời xưa như mật rót
Để bây giờ quặn thắt phía chiêm bao.
NHẤT LÂM
Hoa ban nở
Trắng ngần giữa rừng thẳm
Phân vân sương núi rơi
Hoa nở như con gái
Đêm xòe núi chơi vơi
Khăn piêu thêu chỉ thắm
Em múa say thâu đêm
Nhà sàn rung ánh lửa
Tay trong tay điệu khèn
Vòng xòe xoay suối lượn
Gà đã gáy em ơi
Mẹ cha mừng cơm mới
Anh mềm môi men đời
Hẹn mùa hoa ban nở
Trắng ngần nước suối xuân
Tóc dài lồng bóng núi
Em tắm như thiên thần.
NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG
Tìm
Tìm về tuổi thơ em
tôi bỗng nhận ra mình trong đó
con dế mèn nhốt sâu trong lọ
đôi mắt xoe tròn sau ngọn cỏ đong đưa!
Tôi bỗng nhớ em của ngày xưa
đứng sau rặng mùng tơi trĩu tím màu nhung nhớ
lấp lánh miệng cười
hàng bắp non tinh nghịch
má lúm đồng tiền vơ vẩn giấc mơ xa…
Bao nhiêu năm phiêu bạt đã qua,
tôi quay về tìm em ngày xưa ấy
mái rạ xô nghiêng thở dài sau hàng phố
đường làng bộn bề, gầm rú xe qua.
Không thấy em
mái tóc đen thoảng mùi hoa bưởi
chỉ thấy xanh đỏ tím vàng,
mùi hóa chất quẩn quanh.
Em ở nơi nào
đôi mắt đen thuở ấy?
PHAN LỆ DUNG
Lời nguyện cầu
Ngươi ấy không về
mùa này không có nắng nơi cánh chim
mây lang thang
cỏ cũng buồn
Từ buổi người đi không lời hẹn
gió không nói
hoa không cười
những đám mây màu chàm
buồn bã bay về biển
nắng đợi chiều ...say
Có lẽ giờ đây người nhớ Huế
sao không tin vào mưa
mưa hát
rằng có mùa thu
ở trọ nỗi buồn
rằng chưa một lần mặc áo tình nhân
mà đã xa vời vợi
Có thể giờ này người không còn nhớ đến tôi
sao tôi vẫn không tin
có loài hoa tìm vui ở cuối chân trời
mặc buổi chiều
nao nao
rụng về mái phố
Ôi, hở chiều
mênh mang buồn
Giờ tôi chắp tay
lạy đấng linh thiêng
cầu cho hoa biết cười
và phương ấy
trăng sáng trời trong.
(SDB13/06-14)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi