Trương Kiến Giang - Phan Kỷ Sửu - Nguyễn Trọng Tạo - Kim Liên - Xuân Hoàng - Vĩnh Nguyên
Trường Quốc học Huế, nơi Nguyễn Tất Thành đã học từ năm 1908-1909 - Ảnh: internet
TRƯƠNG KIẾN GIANG
Trường Quốc Học với người viết sử
Ghế đá nào nơi Bác ngồi trầm tư?
Về nỗi khổ của người dân mất nước
Hàng cây nào tán lá thường xào xạc
Kể người nghe chuyện Huế những ngày xưa?
Bước khẽ khàng trên lối sỏi vườn trưa
Ngờ gặp dấu chân Người để lại
Ôi, dấu chân ngỡ còn vương bối hổi
Con vừa nghe Người bước ở đâu đây…
Gió rì rào câu chuyện với hàng cây
Phải cơn gió thổi từ buổi ấy
Xưa, Huế có một ngày lửa cháy
Truyền đơn bay - cánh bướm trắng sân trường (*)
Lật trang sách trên tay lòng bỗng bồi hồi
Trang sách ấy, ngày xưa Người đã đọc
Những hàng chữ đau một thời nước mất
Tháng ngày trôi… chuyện cũ chẳng lu mờ
… Vẫn mái trường xưa sách vở học trò
Bao thế hệ nối nhau bước qua vòm cổng cũ
Trường Quốc Học nay thành LỊCH SỬ
Tuổi thơ Người, Huế giữ, vẫn tinh khôi.
Trường Quốc Học 1980 - 1986
-----------------
(*) Năm 1908, Bác Hồ học tại trường Quốc Học, vì tham gia rải truyền đơn hưởng ứng phong trào chống thuế ở Trung kỳ nên bị thực dân Pháp đuổi học.
PHAN KỶ SỬU
Hoa phấn
Có một loài hoa màu trắng
Bay trên tóc thầy bâng khuâng
Tôi gọi tên là hoa phấn
Thuở còn đi học xa xăm
Hoa nhỏ mềm hơn hạt bụi
Mười mấy mùa ve xa rồi
Đi suốt chiều dài lửa khói
Hoa vương vấn mãi lòng tôi
Chiều nay gặp loài hoa ấy
Bay trên bục giảng bồi hồi
Thầy tôi đâu còn đứng đấy
Những ngày hoa bướm đâu rồi
Nhớ quá giọng thầy trầm ấm
Bàn tay êm ái xoa đầu
Thầy tôi giờ già yếu lắm
Chắc không còn nhớ tôi đâu
Thầy ở nơi nào thăm thẳm
Biết bao giờ gặp lại nhau
Để khi gọi thầm hoa phấn
Chao ơi! Lòng cứ nao nao
Nét chữ đầu đời thầy mớm
Hồn tôi sâu lắng không nhòa
Trường cũ dáng thầy trưa sớm
Nguồn thơ vô tận bao la
Bao lớp học trò lớn lên
Đất nước nghiêng vai gánh nặng
Ai vun tâm hồn năm tháng
Làm người nào ai nỡ quên.
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Ấn tượng Huế
Lăng tẩm chùa chiền lẩn khuất dưới bóng thông
khói sương cổ tích
bất chợt hoa
áo dài thiếu nữ
bất chợt lá
chiếc hôn thiên nhiên non tươi
trăng lạnh thượng nguồn tuôn bạc
đèn khuya cuối bến tụ vàng
mãi bí mật những vườn trong phố
rụng trái đào tiên xuống đất trần
những ngả đường sinh viên
những ngả đường xe lam gồng gánh
hoa trâm vàng dắt ai về chốn xưa
thánh thiện thi ca
dân dã tôm chua canh hến
người tranh luận
người mộng mơ
người vẽ tranh tĩnh vật
Sông Hương cân bằng thành thị với làng quê
sao cứ nhớ một dáng bò gặm cỏ
trong bài thơ người bạn đã quan trường
sao cứ ước một người yêu ở đó
để suốt đời quê ngoại cũng quê hương?…
KIM LIÊN
Bóng mát còn lại
Phố biển quê em có từ bao giờ
Mà gốc đa thành cổ thụ
Cây bàng ai trồng mấy mùa đổi lá
Bóng mát dịu dàng không một phút bình yên
Nhà cửa ngổn ngang đạn xé bom rền
Chỉ mảnh trời xanh trên đầu sót lại
Lá yêu cành nên ngọt ngào hoa trái
Phố biển cười trong sắc đỏ bình minh
Bóng mát tuổi thơ cuối phố lặng im
Thành ngọn lửa màu xanh tha thiết
Đàn chim bay đi bao năm tháng trở về
Bao dự kiến dành cho ngày trở lại
Mùa quả ngọt đơm hoa kết trái
Từ bàn tay rắn rỏi nốt chai
Màu xanh vươn trên ngả đường dài
Làm bóng mát ngày mai nắng trãi
Cho nỗi nhớ con tàu khi xa dân bến bãi
Hẹn ngày vui trên con sóng ngân rung
Vòng lá thanh tao ngập gió nồm dâng
Đất trẻ thế mà tóc anh nhuộm bạc
Sóng vô tư một màu xanh chẳng khác
Nước vơi đầy theo năm tháng bâng khuâng
Thị xã xới vun bóng mát hồi sinh
Kỷ niệm cây đa xuôi về quá khứ
Nhưng bóng mát đời em xin hãy nhớ
Nắng gió không làm bạc khoảng trời xanh
Đồng Hới, năm 1984
XUÂN HOÀNG
Bên tượng Đốt-xtôi-ép-ski
Anh cán bộ Hội nhà văn đãng trí
đưa tôi đi thăm viện bảo tàng Đốt-xtôi-ép-ski vào chiều 30-4
Cả Mát-xcơ-và đang nghỉ lễ,
chuẩn bị ngày hội của mình vào ngày mai!
Chỉ có thể gặp Đốt
ở bên ngoài
trong công viên yên tĩnh:
ở đây, quạ và bồ câu
cùng hiền lành chung sống,
Cùng thẩn thơ
quanh tượng của Người.
Nỗi đau khổ hôm qua dẫu đã vơi rồi,
vẫn còn làm vài người trĩu nặng .
Trong cuộc đấu tranh sinh tồn, lẽ phải
loài người đang dành từng bước thăng
"Nhưng trên trái đất này, không có
nỗi khổ đau nào cho là của riêng ai? (*)
Matxcơva 5-86
---------------
(*) Ý thơ của Xi-mô-nốp
VĨNH NGUYÊN
Giá không có loạt bom ngày ấy
Giá không có loạt bom ngày ấy
Thì đến nay có thể mẹ đương còn
Mẹ cuốc xới chăm nom vườn tược
Với đôi tay như lưỡi hái lưỡi liềm
Giá không có loạt bom ngày ấy
Ngôi nhà tranh cột táu chôn sâu
Mưa đâu dễ thác xô sập mái
Và loài mối tinh khôn gặm nhắm cũng còn lâu
Giá không có loạt bom ngày ấy
Ngôi nhà mình ấm cúng biết bao
Tiếng trẻ khóc, tiếng bà, nựng cháu
Con dâu hiền chén nước miếng trầu trao
Giá không có loạt bom ngày ấy
Còn mẹ cho con được đỡ đần
Đời sống khó ngày ngày bao nỗi
Lo toan dồn từng sợi tóc hoa râm
Giá không có loạt bom ngày ấy…
(SH20/8-86)
Quê Hà Tĩnh.Từng tham gia quân đội trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.Tốt nghiệp ĐHTH văn Hà Nội, Tiến sĩ văn học, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam Có thơ đăng báo từ 1975. Ngoài làm thơ còn viết phê bình và nghiên cứu văn học.
Nguyễn Ngọc Phú - Hoàng Văn Bàng - Phụng Lam - Đỗ Quý Dũng - Trần Văn Khởi - Trương Đăng Dung - Trần Thị Bích Liên - Nguyễn Xuân Sang - Đào Đức Tuấn - Hoàng Thị Thương
...sự chộp bắt thời giancó thể nhìn thấy qua sự đổi thay của các tấm hình theonăm thángrồi tôi sẽ đến tuổi sáu mươi, các chân dung ố vàngthực tại của tôisẽ chỉ còn là sự sở hữu các giấc mơ không bao giờ đạt được
...Cuộc sống cứ mênh mông...Có cái gì yên lặng thế?Ngày mai là "Dâu bể"Con người biết lặn lội với "Bể dâu"...
Mai Văn Hoan - Lê Ngã Lễ - Đình Hy - Nguyễn Xuân Tư - Đồng Nguyệt Ái - Đặng Tiến - Sĩ Nhiếp - Lam Kiều - Lê Quốc Hán - Đường Thị Thương - Lê Viết Xuân - Nguyễn Quốc Anh - Nguyễn Thiền Nghi - Quỳnh Như
LTS: ...Với gần 30 công trình nghiên cứu, lý luận - phê bình văn chương có giá trị khoa học, GS. Hà Minh Đức đã trải qua một đời lao lực và giảng dạy để sống, yêu, say và viết... Và không chỉ có thế, GS.Hà Minh Đức còn là tác giả của 3 tập bút ký và 4 tập thơ giàu sự sống thật, giàu phẩm chất nhân văn và thi sĩ.Thơ Hà Minh Đức nồng ấm tình đời, tình người; nhưng với tình yêu, ẩn chứa bên trong buồn thương và đơn độc. Nỗi sầu xứ và những hoài niệm ngày xanh qua từng “giọt nghĩ trong đêm” của tác giả đã làm nên những dư âm buồn xa và những thao thức thơ chăng mắc lòng người.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu chùm thơ mới của tác giả.
Ngọc Tuyết - Ngô Thiên Thu - Tuệ Nguyên - Phạm Trường Thi - Lưu Xông Pha
Lâm Thị Mỹ Dạ - Lê Khánh Mai - Thu Nguyệt - Phan Thị Thanh Nhàn - Song Hảo - Nguyễn Thị Hồng - Trần Thị Trường - Phạm Thị Anh Nga - Thuý Nga - Châu Thu Hà - Phan Dịu Hiền - Dương Bích Hà - Lê Hoàng Anh - Ninh Giang Thu Cúc - Lê Minh Nguyệt - Nguyễn Đăng Chế
Sinh tại Ngọc Hà, Ba Đình, Hà NộiHội viên Hội Nhà văn Hà NộiCác tập thơ đã in: + Gửi con lời ru + Em đi ngang chiều gió + Cỏ mặt trờiCác giải thưởng: + Giải nhất cuộc thi thơ Trung tâm Văn hoá Q 3, TP.HCM + Giải ba cuộc thi thơ lục bát Tuần báo Văn nghệ
Trần Hoàng Phố - Vũ Thị Khương - Trần Hữu Lục - Lê Tấn Quỳnh - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Công Bình - Ngô Cang - Văn Lợi - Hà Huy Hoàng - Nguyễn Ngọc Hạnh
Thần Đinh uy nghiêm kiêu dũngThanh tao tạc dáng bên trờiĐế vương ngầm ghen thế núiVung roi phạt BÁT NGHĨA SƠN...
Họ và tên đầy đủ: Nguyễn Công Nam - Sinh 1953Bút danh: Công NamQuê: Hùng Tiến - Nam Đàn - Nghệ AnLà hội viên HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HẢI PHÒNGTác phẩm đã xuất bản: - TIẾNG VỌNG ĐÊM MƯA -Thơ (NXB Hải Phòng). - Giải thưởng cuộc thi thơ 2001 - 2003 của TCSH.
Trên bầu trời, một vì sao đỏ chóiRót ánh sáng vào tháng ngày hấp hốiMáu sao rơiGiọt lịm lưng thềmCây nến tim tôi bùng cháy...
Nguyễn Sĩ Cứ - Võ Thị Hồng Tơ - Hoàng Cầm - Đào Duy Anh - Hoàng Ly Thạch Thảo - Võ Văn Luyến - Phạm Duy Tân
Tên khai sinh: Vương Oanh NhiSinh năm 1947 tại Hải Phòng.Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam .Học viên khoá IV Trường viết văn Nguyễn DuTác phẩm chính: + Lối nhỏ (1988) + Bài mẫu giáo sáng thế(1993)
CHÂU NHONăm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với địch, 3 đồng chí hy sinh và trung đội trưởng bị thương nặng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đêm đó trung đội trưởng đã “nói chuyện với người yêu” trong cơn mê sảng. Xúc động trước tình cảm đó, tôi đã chuyển lời của người liệt sĩ thành bài thơ gửi về cho người yêu của anh ở hậu phương là cô Lê Thị Ánh, giáo viên cấp I ở một bản thuộc huyện Quế Phong, Nghệ An.
Hà Duyên - Nguyễn Thụy Kha - Nguyễn Thanh Văn - Nguyễn Văn Quang - Phạm Xuân Dũng - Lê Tuấn Lộc - Hồng Thị Vinh
Phạm Tấn Hầu - Lê Ngã Lễ - Lương Ngọc An - Lê Bá Thự - Phạm Thị Anh Nga - Đoàn Mạnh Phương - Trịnh Văn - Nhất Lâm - Hoàng Lê Ân.
NGUYỄN VĂN DINHCâu thơ BácThuở chăn đơn Bác đắp trong hangỐc suối, cơm ngô, nõn chuối ngànThơ Người vẫn viết cho ta đọc"Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Nguyễn Trọng Tạo - Diệp Minh Luyện - Nguyễn Việt Tư - Lê Viết Xuân - Trần Lan Vinh - Mai Văn Phấn