Bác Hồ và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bên ao sen ở Hà Tĩnh - Ảnh Tư liệu
MINH HUỆ Muôn thuở anh đội viên Chắt ơi, cậu ở đâu Bây giờ đâu, ơi Chắt Cứ nghe lùa gió bấc Lại nhớ cậu lạ lùng. Nhớ cái đêm mưa phùn Cậu ghé mình chốc lát Mà bừng lên tia chớp Rực cháy cả lòng mình Khi giọng cậu mông mênh Chuyện Bác Hồ ra trận. Hai đứa chung tổ Đảng Cùng lúc đi chiến trường, Cậu lên Cao Bắc Lạng Mình vào Bình Trị Thiên Vào chính ngay quê cậu. Hai năm xa cách liền, Mà cậu không kịp hỏi Làng cậu giờ ra sao Cậu chỉ còn kịp kể Gặp bác giữa chiến trường, Bác thức suốt hành quân Lửa hồng Bác soi tỏa Lán nhỏ tụ tình thương. Từng lời cậu xốn xang Mình uống sao cho thỏa “Đêm nay Bác không ngủ, Ôi Đêm nay… Đêm nay!...” Tên Bác vang trống trận Gọi bút mình xông lên Cũng những giờ chiến thắng Cháy ruột mong Bác vào… Càng viết càng ấm ran Bút mình tràn mạch suối Ôi, đầu bút cháy mãi Một cảm giác rưng rưng Bác mình sao ấm thế. Mình thầm kêu! Bác ơi! Mà ngỡ như gọi mẹ. Một ánh lửa ngời ngời Đưa mình hòa vào Chắt… Một đêm thức bên Bác Một đêm hóa một đời Một đời thành vĩnh viễn. Bài thơ ra tiền tuyến Đêm nay Chắt ở đâu? Cao Bắc Lạng, Tây Bắc Hòa Bình đến Điện Biên… Hành quân trong lòng Bác Muôn thuở anh đội viên XUÂN QUỲNH Cố đô Tặng các bạn tôi ở Huế Với vết chân của bầy dã thú In trên nền gạch cũ trước lăng vua Với dòng sông như không chảy bao giờ Vẫn mờ ảo ngàn năm màu sương khói Tà áo trắng bay về đâu vời vợi Con thuyền khuya trăng gọi phía nguồn xa Màu nắng in trong mắt tự ngàn xưa Căn nhà cũ, mảnh vườn hương ngày cũ Dẫu hiện tại mà như quá khứ Là quê hương dù không phải quê hương. Dường như đây, tôi đã có nỗi buồn Có hạnh phúc, có một thời thơ bé Có khát vọng những năm còn rất trẻ Tôi thuộc từ ngọn cỏ đến nhành cây Tôi thương về vời vợi những trời mây Nhịp tim đập, tiếng chuông ngày nắng xế. Đường xa ngái cho lòng da diết thế Con nước nào ra bể chiều nay Đến nao lòng là giờ phút chia tay Con sông cũ mảnh vườn xưa cũ Như vĩnh biệt tuổi thơ và quá khứ Bạn bè ơi dẫu tôi sẽ quay về Nhưng chắc rằng tất cả chẳng như xưa Tôi sẽ khác, cố đô rồi cũng khác. Huế, 11-1984 PHƯƠNG THÚY Những trang sách tiếng Nga 1 Những trang sách bằng tiếng của Lê-nin Đến với chúng tôi Như bàn tay của người yêu dấu Xiết chặt nhau trên đường đời Khi anh yêu em; tay tìm nắm lại Khi em tin anh; tay sẽ để yên Những bàn tay làm mình hiểu nhau thêm Không cần lời nói Những bàn tay bày đường chỉ lối Những bàn tay chị ngã em nâng Những bàn tay chân tình 2 Những trang sách bằng tiếng của Lê-nin Đến với chúng tôi như đàn cò trắng Đàn cò bay trong nắng Chở dân ca và hy vọng tốt lành Chở những bầu trời chỉ có mầu xanh Đi kiếm đất hiền mà đậu Anh lính biên phòng hay người vợ trẻ Ai không mang tâm sự cánh cò! Mong một ngày nắng đẹp nắng to Để đời thôi lặn lội 3 Những cánh cò hình những bàn tay Những bàn tay vẫy những cánh cò Như những trang sách tiếng Nga. TRẦN THỊ HIỀN Với loài đá tai mèo Gió thì xuống, mà em thì lên Lưng chừng đồi, lưng chừng tiếng hát Chân giầy vải quen trèo từng đá vách Để mà thương các loài đá tai mèo Anh ở xa nên anh cứ dặn dò Đá tai mèo để cắt chân ứa máu Đường lên rừng nào đâu có lối Đá tai mèo em lần bậc đổ lên, Tiếng hát gọi nhau chân nối chân Trong sương sớm đá lạnh băng kỳ lạ Màu áo xanh đi trong màu lá Một khúc cao lao xao tiếng thợ rừng Em cũng đi như vậy, từng bâng khuâng Chọn từng thỏi đá tai mèo lắm sắc Để mà nghĩ kỷ niệm nào cũng đẹp Đã yêu rừng và yêu cả mùa đông Em ở đây chỉ nhận biết mùa xuân Khi núi rừng bắt đầu xanh lá mới Khi loài đá tai mèo chợt bắt đầu ấm lại Trong bàn tay áp lên đá tình cờ Em có khi như loài đá ngu ngơ Giữa rừng xanh muốn giữ mùa xuân mãi Đá thì nâng niu từng bước chân giầy vải, Em thì nâng niu từng giọt nắng đầu mùa TRẦN HẢI SÂM Nơi có hai mùa Anh ở đây chỉ có hai mùa Mỗi cánh rừng dấu bao điều lạ lẫm Mới chớm nắng đã mưa - mưa hoài mưa hẩm Mái rừng lá dột, cây đứng vặn mình… Những con đường không giữ dấu chân Vết hổ đi, vết nai rừng bước lạc Ai từng đi giữa âm thầm cơn sốt Vết dao còn để dấu trên cây… Vết sẹo còn để dấu trên tay Ở với rừng cả thời tuổi trẻ Đường gỗ lao vết nhăn trán thợ Gió rừng ru câu hát xưa … “Trời mưa trong rú mưa ra”… Anh ở đây chỉ có hai mùa Cơn nắng đến và cơn mưa chợt đến Gỗ như trâu đàn đằm mình dưới bến Áo ướt rồi lại khô Chọn đá mài rìu, chọn giũa mài cưa Cán rựa, cán rìu thấm mồ hôi nhẵn bóng Cưa đã sắc, lưỡi rìu đã bén Rừng cây đổ vỡ - Rừng cây say… Tuổi hai mươi, ba mươi… mấy thế hệ nơi này Hai mùa đi qua rách sờn vai áo Lắm bữa rau rừng, lắm hôm nhạt muối Nhìn vào mắt nhau cho thẳng đường cưa Chọn thế đứng nào đắn gỗ cho bưa … Nắng của thợ già, mưa dành thợ trẻ Hửng nắng rừng lim, đã mưa rừng dẻ Cánh thợ rừng soi mặt cho nhau Chuyện giận, chuyện buồn chẳng giữ được lâu Bởi đã dầm mình giữa dòng thác trắng Gỗ kết thành bè, nứa tre thành mảng Ghìm dây neo khi vượt đá ngầm Chắc tay sào gạt nỗi niềm riêng… Anh ở đây chỉ có hai mùa Em sẽ nhận ra mùa xuân trong từng thớ gỗ Và tình rừng có trong mắt tre, mắt nứa Hiểu thêm người trăn trở với rừng sâu… Ba Rền 1984 TRẦN KHẮC TÁM Viết ở quê hương sau cơn bão Cơn bão tràn qua đất quê mình Tôi sững sờ đọc dòng tin trên báo Tôi sững sờ đứng ngoài cơn bão Một góc trời gió giật cuồng điên Cơn bão dữ dằn tràn qua mảnh đất nghèo Cả nước thương cả nước phập phồng thấp thỏm Những ngôi nhà mọc lên những ngôi nhà nằm xuống Bao nhiêu người phơi áo trong mưa *** Cơn bão quét đi bao thứ trên đời Những vẫn còn nguyên ánh sáng Cháy ngời lên từ những trái tim Để giờ đây tôi đứng sững sờ nhìn Những ngôi nhà. Khói chiều. Em đãi gạo Chuyến đò ngang bao màu áo sang sông *** Tôi chợt nhận ra và yêu đến vô cùng Cái chồi non mọc trên cành cây gẫy! HÀ LINH CHI Những căn nhà không bao giờ khép cửa Tặng các chiến sĩ D 840 Tôi trở về với bè bạn anh em Nơi những tên làng nghe lần đầu lạ hoắc Fi-xơ-run, Liêng-hung, Rốt-rờ-cát Đường Rờ-mây vắt bâu kín bàn chân Cứ ngây người trước vùng rừng xa xăm Lau lách và le ken dày bến nước Trưa yên tĩnh nên tiếng chim lãnh lót Những căn nhà đầy ắp gió cao nguyên, Lon thuốc rê để ngỏ trên bàn Xếp báo cũ và ngọn đèn hạt đỗ Những khẩu súng lặng im trên giá Mùa hanh khô nghe tiếng suối như đàn Chốc chốc bay lên những trận cười dòn Lính không ngủ đi tìm rau bắt cá Vườn - chuối - thanh - niên lào xào ngọn gió Gió xa nhà nên gió đổi mênh mang Như chẳng hề qua giây phút băn khoăn Trước những ruồi vàng, vắt xanh, muỗi xám Một chén trà chuyền tay bè bạn Mẫu thuốc tàn ngọn khói vòng quanh Tiếng kẻng trực ban lay động lá rừng Nhịp hai, nhịp hai bước chân rậm rịch Tên đoàn quân nghe như khúc hát Tiểu - đoàn - rừng - trúc, chiến - sĩ - đồi - thông… Những mùa mưa bê bết lầy bùn Những mùa khô nồng khê giọt nước Giày há mõm băng rừng lùng địch Hái nắm rau rừng hòa chung bát canh Khi đêm về mơ giọng hát trẻ em Ánh lửa nhỏ soi thư nhà rạo rực Lắng tiếng xe nơi cửa rừng bất chợt Tiếng cười bay lên từng gương mặt chờ mong Với những căn nhà không khép cửa quanh năm Bao tấm lòng trong veo nguồn suối Tôi nhận ra mình nhiều phút giây mệt mỏi Để tan trôi nơi dòng nước đầu nguồn. Đà Lạt 10-11-1984 MAI VĂN HOAN Ga Thuận Lý Tặng anh X.H. Có một cái tên nghe rất dễ thương Nhưng đã lâu rồi ít người nhắc nhở Đó là tên một nhà ga không có tàu đổ nữa Thuận Lý thành kỷ niệm xa xôi… Mái tóc anh điểm những sợi bạc rồi Bao bề bộn cuộc đời từng làm anh trăn trở Nhật ký anh có trang ghi về một nhà ga nhỏ Anh bồi hồi khi nhắc đến lên ga, Anh nhớ về cỏ xanh bên đường - chỗ mẹ thường tiễn anh đi xa Nơi góc sân có tán bàng - anh vẫn đứng một mình xem người đưa đón Một xao xuyến bất ngờ… anh biết mình đã lớn Khi tàu rời ga, bạn gái đứng trông theo. Cùng với nỗi cách chia của đất nước thân yêu Ga vắng bóng con tàu thời thơ trẻ Tên ga quê trong lòng nhắc khẽ Như tên một người thương xa cách lâu ngày. Mỗi việc anh làm hóa những đoạn đường ray Hóa viên đá rải đường nho nhỏ Hóa nhịp cầu bắc qua niềm mong nhớ. Để con tàu trở lại với nhà ga. … Rồi tháng năm bom đạn đi qua Con tàu mới đưa anh về ga cũ Nơi có những kỷ niệm tuổi thơ anh hằng ấp ủ Anh lâng lâng như gặp lại người thương cái thuở ban đầu. Thuận Lý đây rồi! Anh đứng lặng hồi lâu Sân ga mới vừa san, nhà ga vừa dựng tạm Chừng ấy thôi đủ cho anh rung cảm Đủ cho những sợi bạc trên tóc anh xanh lại tuổi thiếu thời. Đồng Hới 1977 VĂN TĂNG Gió Gió không biết làm duyên Bởi có đâu hình dáng Qua biển ngọn gió rộng Quê sông ngọn gió dài Lên núi gió cao vời Qua đồng gió lượn sóng Gió không có hình dáng Nên chẳng biết làm duyên Cuộc đời gió không thể Một giây nào đứng yên. THIỆP ĐÁNG Thuộc về mùa xuân Những con bò vàng mang guốc Đi về phía cỏ non Những con chào mào trống mái sóng sánh bộ lông màu nâu trắng, Nom như những ly cà-phê sữa… Em bắt đầu soạn ra những hạt giống mùa màng, Giữa căn nhà ban mai có tiếng đàn ghi-ta bập bùng hợp âm son thứ. Những hạt giống - Những nốt tròn trong lòng tay em mở ra nồng nàn ô nhạc Tôi nhìn vào xướng âm khúc - hát - gieo - vãi. Và bầu trời xanh căng mặt trống. Những điệu nhảy chân trần từng chùm chim sâu. Và mặt trời - chiếc máy ghi âm, Đang thu hút qua làn - sóng - ngực - tôi cái ngôn - ngữ - yêu - đương, cái ngôn ngữ khát vọng của lứa TUỔI HAI MƯƠI vừa đến! Những con bò vàng mang guốc Đi về phía cỏ non. - Sau lắm hồi mưa mưa rung lục lạc, Huế vô cùng phát tiết phải không em: chất nhựa tinh của cây vị sinh tố của trái: Ta cũng đi về phía cỏ non 1-1-1985 NGUYỄN THÀNH PHONG Mạ ơi! Tặng N.Q.L. Nhà mạ mình ở trên động cát nắng rộp ngọn phi lao trưa lặng gió nồm tuổi mạ mình đường cát cũ mòn gót chân khu vườn cũ thân cây xiêu vì bão trưa ngày mình về lại mạ lom khom đội nắng không đúng phiên chợ Đồn mạ thương mình tay mạ lựa bát canh quá ngọt lành, vị cá bã trầu ơi! Mấy đứa tụi con đã biển đã trời giờ về cúi trước nếp nhà của mạ về thơ dại trong mắt nhìn của mạ xòa bàn tay giãi bày tròn một tiếng: mạ ơi! bàn tay vịn cây rừng bao núi chỉ đầy vết chai thôi. Mạ đã nuôi bạn hai mươi năm mong đợi thêm mười năm mạ ngóng từng ngày buổi sáng bạn đi xa những cây ổi cây dừa mạ đem ươm xuống cát mạ chỉ ước trong nếp nhà vắng nghèo của mạ đứa con dâu cho mạ thỏa thuê nhìn cho mạ thương thay mình tuổi mạ làm dâu… ba mươi tuổi bạn đưa tôi về lại chỉ ba lô mòn quai ngực đầy chuyện các ngả đường Bây giờ tôi rưng rưng tôi biết nói làm sao khi đi xa nhìn về phía mạ mạ đứng như cây trên cát trắng mùa hè mùa hè có bao nhiêu là bão mà mái nhà mạ mình chỉ mỗi rừng dương che bạn ơi!... Ba Đồn 6-1984 HÀ NHẬT Tình yêu của người làm muối Tình anh như muối kia Mặn mòi và lặng lẽ Muối trăm đời vẫn thế Tình anh không có màu Sóng vỗ suốt nghìn chiều Biển trải qua nghìn đau Biển một chiều thành muối Bây giờ em thấy đâu. Bão sớm và mưa trưa Nỗi buồn và tiếng hát Nghìn âm vang đã tắt Trong hạt muối bây giờ Những bờ xa bến sâu Phố hồng và đảo lạ Đã soi vào biển cả Bây giờ em thấy đâu. Tình anh như muối kia Không màu và lặng lẽ Em như làn gió nhẹ Thổi trong vườn cây chiều. (13/6-85) |
Bãi cát nhàu muối mặnHoang dại một loài hoaAi đặt tên Cúc biểnMàu tím đỏ mượt mà
Em về với chị, quê xưaQuê em quê chị, bây giờ quê ai?Cách xa hút tháng năm dàiSao ngày trở lại lạnh gai cả người.
(Nhân lời kể của một người chơi chim)
Chị tôiphận gáiheo may về lơ lửng sáo diều ngânSông Bồ mười hai bếnbến nào nước đụcbến nào trong...
...Không hề có chia ly, không cả lời giã từ, chỉ phương ấy trongvô vọng của em, chợt giây khắc này bừng chói...
Gương mặt thánh thiệnSáng và buồn
Sinh 1962 ở Hà Nội, tốt nghiệp Đại học hàng hải tại Liên Xô (1986) và đã từng là thuyền trưởng Hải quân. Ngô Tự Lập đã xuất bản hơn chục đầu sách bao gồm thơ, truyện, tiểu luận và dịch thuật.Anh là hội viên Hội Nhà văn Việt .
Sinh năm 1949 tại Bình Lục - Hà . Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội.Tác phẩm đã xuất bản: Dấu lặng - (Thơ) NXB Văn học 1976; Đêm thiếu nữ - (Thơ) NXB Văn học 1978. Ngoài ra Trần Lan Vinh còn có thơ in trong các tuyển tập khác.
Sinh 1946 tại Liên Minh, Vụ Bản, Nam ĐịnhCử nhân nghệ thuật - Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội - Hội viên Hội Mỹ Thuật Hà Nội.Tác phẩm: Trại Muộn (thơ) NXB Văn học 1995; Mảnh trời qua ô cửa - (thơ) NXB Văn học 1997.
Một tiếng thôi mà bao hàm cả cộng đồng dân tộc, cả xứ sở thân yêu với đồng lúa cánh cò, với núi non điệp trùng và rừng vàng biển bạc, những người vợ thương chồng tạo vóc dáng vọng phu.
(Gửi nhà thơ L.M.T)Em tìm trong lá một vầng trăng xaEm tìm trong cỏ bóng chiều vừa qua.
Đợi tắt mặt trờiĐêm không trăng ta lầm lũi bước sóng đôi với biểnXa khơi thăm thẳm màn đen
Tôi vấp ngã vào ban mai trong trẻoNước sông Hương xanh rười rượi tháng tưMưa đầu hạ, sấm chớp chừng vội vãCơn gió hoang lạ lẫm bước tôi về
LTS: Thanh Thảo tên thật là Hồ Thành Công, sinh 12 - 3 - 1946 tại Mộ Đức Quảng Ngãi. Tốt nghiệp khoa ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội 1969, vào bộ đội, làm báo ở Đài tiếng nói VN, đi chiến trường bộ cuối năm 1970. Là phóng viên chiến trường, ở Ban binh vận R. Sau giải phóng về trại sáng tác Quân khu 5, sau đó giải ngũ, về Hội Văn nghệ Nghĩa Bình và Hội Văn nghệ Quảng Ngãi. Hội viên Hội nhà văn, ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà văn Việt . Đã in hơn 10 tập thơ và trường ca. Hai lần nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt cho hai tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” và trường ca “Những ngọn sóng mặt trời”. Giờ vẫn làm thơ chơi và viết báo kiếm sống.
LTS: Trần Chấn Uy sinh năm 1957, tại Đức Thọ, Hà Tĩnh, hội viên Hội Nhà văn Việt . Anh là một nhà thơ trẻ đã có 5 tập thơ ra mắt bạn đọc. Trần Chấn Uy đi khắp nơi, say mê với cái mình đã chọn, diễn đạt nó với nhiều cung bậc. Tìm kiếm chân lý và cái đẹp để đưa vào thơ, với tấm lòng bao dung, nhân hậu, dưới góc độ nào, giọng thơ Trần Chấn Uy cũng chân chất, mộc mạc, nồng ấm. Nhà thơ Trần Chấn Uy hiện nay công tác ở Đài Truyền hình Khánh Hoà.
LTS: Dạy toán nhưng rất yêu thơ đó là điểm đặc biệt của con người Lê Quốc Hán. Lê Quốc Hán viết thơ nhiều. Thơ anh đã in hầu hết các báo ổ địa phương và trong nước. Thấm đẫm mồ hôi của người lao động, anh luôn nhìn cuộc đời với đôi mắt yêu thương, đầy trân trọng. Hồn hậu, mộc mạc, chân chất mà vẫn nói được cái mình gửi gắm không chút sáo cũ, âu đó cũng là điểm mạnh trong thơ Lê Quốc Hán.Lê Quốc Hán hiện nay là Tiến sĩ trường Đại học Sư phạm Vinh.
LTS: Sinh năm 1969 đã có 2 tập thơ riêng. Là một cây bút trẻ luôn có ý thức làm mới thơ. Tập thơ đầu tay “Dòng sông cháy” của chị vừa ra mắt bạn đọc đã nhận được giải thưởng văn học của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam 1997.Táo bạo, trăn trở cho cái mới. Khắt khe, đòi hỏi cao chính mình trong lao động nghệ thuật; Nguyễn Bảo Chân đã chọn cho mình một cách đi riêng trên con đường thơ ca. Với ngôn ngữ thơ hiện đại, với hình tượng thơ kỳ lạ - qua cảm xúc tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, Nguyễn Bảo Chân đã mang đến cho bạn đọc những bài thơ hay. Hiện nay Nguyễn Bảo Chân công tác ở Đài Truyền hình Việt - phụ trách chương trình “Tác phẩm và dư luận” trên sóng VTV3.
LTS: Sinh năm 1943 ở Hà Nội. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn là một cây bút nữ nổi tiếng. Với chất thơ dịu dàng, đằm thắm, chị đã đem đến cho thơ Việt một giọng riêng. Chị không tìm kiếm những tứ thơ lạ, mà làm lạ những tứ thơ tưởng như đã cũ. Với 6 tập thơ và 2 tập truyện thiếu nhi, Phan Thị Thanh Nhàn đã nhận được nhiều giải thưởng văn học. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn hiện nay là UVBCH Hội Nhà Văn Hà Nội và là chủ nhiệm câu lạc bộ nhà văn nữ Việt .
Giọng nói chỉ còn thoang thoảngđồng cỏ hoa vàng
Thiên niên kỷ mới vẫy ta sangkhốn nỗi quà xuân chưa sẵn sàng