Ảnh: Internet
THU BỒN Tạm biệt Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ Chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng Mặt trời vàng và mắt em nâu Xin chào Huế một lần anh đến Để ngàn lần anh nhớ trong mơ Em rất thực nắng thì mờ ảo Xin đừng nhầm em với cố đô Nhịp cầu cong và con đường thẳng Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu Con sông dùng dằng con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền Nón rất Huế mà đời không phải thế Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya Tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng Anh trở về hóa đá phía bên kia. Huế , tháng 8-83 NGUYỄN DUY Bà ngoại Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá níu váy bà đi chợ Bình Lâm bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần. Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng. Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn. Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực giữa bà tôi và tiên phật thánh thần cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm. Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi khi tôi biết thương bà thì đã muộn bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi! 9-83 NGÔ THẾ OANH Với biển và bây giờ khi tất cả đã dịu đi chỉ còn gió và rì rào tiếng sóng ánh lấp lánh trên cao vời yên lặng những ngôi sao thầm nói điều chi tôi chợt hiểu những gì ngày qua chưa hiểu hết biển lớn lao biển an ủi bao nhiêu ngọn gió mạnh trên trang thơ tôi viết tâm hồn tôi cùng nhịp với thủy triều vâng, tôi đã để ngỏ tâm hồn tôi như mở cửa sổ phòng tôi vậy biển tặng tôi những năm tháng trong lành những ngọn sóng những con tàu mặt trời và cá lớp rong dạt bờ thoảng vị nồng tanh và có những ngày không bình yên những ngày bão táp tôi cùng chung số phận với cánh buồm cũng như buồm tôi bắt đầu từ đất và cuối cùng là đại dương tháng 4-83 NGUYỄN THỤY KHA Nhớ nắng Không có lời nào rõ bằng cái nhìn Bức tường đạn găm lỗ chỗ Đất cát dưới chân nắng nằm mắt mở Vết chém thân cây nhựa đọng thâm Vẫn còn đây Quảng Trị Cổ Thành Trời bâng khuâng mây bạc Gạch vụn ngổn ngang ngổn ngang đổ nát Hố bom hun hút vết thương Đo trên bản đồ hơn cây số vuông Mà gặp ở đây tan tành bao miền đất Nhưng nơi nào? Nơi nào đau nhất Để suốt đời tôi không gặp lại Cổ Thành Để suốt đời tôi không gặp lại các anh Một mùa hè nung nấu Mùa hè ấy gạch chảy ra như máu Máu các anh che chở những căn nhà Em làm chi? em xếp gạch đằng xa Em ghép lại mặt trời mùa hè ấy Hay rưng rưng tay nâng dòng máu chảy Có nghe dĩ vãng dội về? Cổ Thành 1982 THẾ DŨNG Tôi biết mình hôm nay Tôi biết tôi bây giờ Chưa thể yêu hết được Sự tuyệt vời nơi em Mỗi ngày thêm bất chợt Tôi không dám nghĩ mình Đã hiến dâng nhiều nhất Dù tình ca đầy ngực Và súng chắc trong tay Tôi biết mình hôm nay Chưa thấm chi người trước Ngày mai bao trái tim Sẽ còn yêu đất nước Chưa thể yêu hết được Dẫu đã nhiều tháng năm Đất nước nhiều kỳ diệu Tôi ngạc nhiên bao lần Không thể yêu hết được Dẫu sống nhiều thanh niên Trái đất đầy bí ẩn Mỗi sớm đầy ngạc nhiên 1981-1982 ĐỖ VĂN KHOÁI Cháy giữa lòng anh năm tháng Em ở đầu con sông Làm nước chia mấy nhánh Trời thay mùa lành lạnh Đổ trắng những dòng sương Anh mang theo đồi nương Chập chùng trong trí nhớ Mai sớm đi qua trường Qua cầu mưa bụi nhỏ Từ biệt phố em đi Thành mở toang mấy cửa Quê hương mới nằm chờ Có em về núi mở Có mẹ về cúi lưng Thương vồng khoai um lá Có đàn em rất nhỏ Thả đời trên đồi cao Em nuôi đất mùa xuân Nuôi tình vàng hạ đỏ Hẹn nhau những chuyến đò Biết bao giờ hết nhớ Đến bao giờ lúa trổ Thơm gió những lòng thung Đến bao giờ điện sáng Từ nơi em một vùng Nhớ ngày đầu anh lên Nguồn trên đưa nước xuống Gọi em ngoài rẫy nương Chim chiều nghiêng cánh rộn Mẹ cười bên bếp đỏ Nhà thắp trên đồi con Có trăm nhà nho nhỏ Nằm họp thành xóm thôn Em về qua rẫy nương Chiều vàng sông nắng rọi Khoai ôm đầy ngực thơm Như ôm đầy tình mới Anh về đây hẹn tới Một ngày ta có nhau Nhìn mây trời phố cũ Lòng giăng mấy con cầu Huế, 1976 MAI VĂN HOAN Thăm bạn thơ (Tặng Hồng Thế) Một ngôi nhà nho nhỏ Ẩn dưới rặng tre xanh Đụn rơm vàng đầu ngõ Đàn gà ăn trước sân. Đãi “khách” từ xa đến Dứa ngọt hái sau vườn Len vào trong câu chuyện Thoang thoảng mùi hương thơm Thằng Dợ xuống đun nước Thằng Chạc hát nghêu ngao, Bà xã về, dựng cuốc Mắt cười theo tiếng chào. Lâu lắm mới gặp nhau Chuyện đồng sâu, đồng cạn Chuyện những cánh bèo dâu Chuyện cày , bừa , mương, máng… Lật từng trang thơ bạn Thấy nước mặn, đồng chua Hết lũ rồi đến hạn Đường rơm thơm ngày mùa Thơ làm bên bờ ruộng Làm khi tát nước xong Thơ làm trước vụ gặt Làm trong hương lúa đồng Giữa bộn bề công việc Vẫn vui buồn cùng thơ Sau mỗi dòng bạn viết Bao nhiêu là nắng mưa Trung Trạch 1980 (4/12-83) |
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi
NGUYỄN PHAN QUẾ MAI
Xuân Hoàng - Nguyễn Xuân Thâm - Phạm Ngọc Cảnh - Mai Nguyên - Thế Dũng - Hải Vân - Hà Đức Hạnh
PHAN DUY NHÂNThơ xuân đọc với nam hà
Lê Huỳnh Lâm - Triệu Nguyên Phong - Nguyễn Hữu Hồng Minh - Trần Ninh Hồ - Phùng Tấn Đông - Trần Hữu Lục - Phạm Trường Thi - Nguyễn Man Kim - Tôn Nữ Thu Thủy - Trương Đăng Dung - Lê Huy Quang - Đoàn Mạnh Phương - Châu Thu Hà - Lê Ngã Lễ - Lâm Anh - Đỗ Văn Khoái - Nguyễn Khắc Thạch - Lê Tấn Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm - Thanh Thảo - Hoàng Vũ Thuật - Trần Quang Đoàn - Hải Bằng - Nguyễn Văn Dinh - Hải Kỳ - Nguyễn Khắc Thạch - Phạm Đức - Đỗ Văn Khoái - Quốc Minh - Ngô Xuân Hội
Mai Linh - Nguyễn Quang Lập - Tâm Hành - Mai Nam Thắng - Nguyễn Loan
Nguyễn Khoa Điềm - Tôn Nữ Hỷ Khương - Tiến Thảo - Hồ Đắc Thiếu Anh - Ngàn Thương - Lê Vĩnh Thái - Nguyễn Văn Quang - Tây Linh Phạm Xuân Phụng - Bảo Cường - Công Nam - Trần Hoàng Vũ Nguyên - Nguyễn Dũng - Kiều Trung Phương - Phan Như - Nguyễn Sông Bồ - Nguyễn Tuất - Mai Nam Thắng
Lam Hạnh - Tôn Phong - Nguyễn Quang Hà - Đinh Thị Như Thúy - Nguyễn Đông Nhật - Nguyễn Thiền Nghi - Từ Nguyễn - Nguyễn Hoa - Từ Hoài Tấn - Nguyễn Thị Anh Đào - Trần Tịnh Yên - Nguyễn Thánh Ngã - Huỳnh Thúy Kiều - Mai Văn Phấn - Kim Chuông - Tuệ Lam - Hồng Vinh - Nguyễn Minh Khiêm - Võ Mạnh Lập - Nguyễn Nguyên An - Cao Quảng Văn
Trần Xuân An - Nguyễn Đức Phú Thọ - Vũ Kim Liên - Đức Sơn
VĂN LỢIĐồng Hới trong anh
PHÙNG TẤN ĐÔNG Nghe đàn tranh ở Huế
TRẦN THỊ HUYỀN TRANGẢo ảnh
THANH THẢOHà Nội- nhìn về phía tôi
NGỌC TUYẾTSói