Thơ Sông Hương 12-1999

09:16 04/11/2009
Phan Văn Từ - Vương Hồng Hoan - Nguyễn Tất Hanh - Nguyên Quân - Dương Thu Hằng  

(Ảnh: Internet)


PHAN VĂN TỪ


Đò ơi


Chẳng ai gọi tên tôi
Chỉ tiếng "đò ơi" vang lên bên mép nước
Mười ba tuổi chèo đò
Đến giờ tóc bạc trắng
Bao lớp người qua đò lớn lên theo năm tháng
Đôi bờ sông thay đổi đến lạ lùng
Tỗi vẫn chèo đò đưa khách qua sông
Vẫn trẻ trong ngàn xưa tiếng gọi:
- Đò ơi!

Tôi thuộc bến đò như thuộc đời tôi
Vực Ác xoáy tròn chân Rú Quánh
Hòn Vợ hòn Chồng sau bao mùa lũ cuốn
Nhập vào nhau ngang tàng giữa dòng trôi
Bờ phía Dùng cứ rộng thêm bãi bồi
Bờ Chí Sơn nước cứ bào sạt núi
Chỉ có hướng con đò tôi không đổi
Ngày ngày sang ngang theo tiếng gọi:
- Đò ơi!

Bao người đã đến với tôi
Bao người qua rồi không trở lại
Bao người thành khách quen
Thành người thân
Miếng trầu chia nhau
Chia nhau niềm vui, lời giận dỗi
Bằng cây sào, mái chèo
Con đò qua rồi trở lại
Nối nỗi lo giữa đêm đông tối trời
Nối ngày lũ nước liếm ngang sườn núi
Ơi tiếng gọi khẩn cầu và dữ dội:
- Đò ơi!
Đôi bờ sông lở bồi
Bao người thân hóa thành xa lạ
Mái tóc bạc khom lưng đẩy sào rồi sẽ không còn nữa
Lại hoàn nguyên trong tiếng gọi:
- Đò ơi!


Giữa trưa phố Dùng


Phố ngủ yên trong tiếng ve
Phố ngủ yên trong tán xanh cây lá
Em ở gần và em xa lạ  quá
Vui hay buồn nào biết đến từ đâu

Yêu nhau nhiều để thêm giận cho nhau
Giận nhau nhiều để yêu thêm nhiều đấy
Nhưng mà thôi cuộc đời là vậy
Giữa tròn xanh mình giấu bóng mình.


VƯƠNG HỒNG HOAN


Biển


Biển cũng đẹp
Nhưng biển chẳng hiền đâu
Biển hiền khi
Trời hẩng sáng
Đứng trên bờ
Nhìn ra
Sóng vỗ nhẹ
Như ru ngủ
Những con tàu
Biển dữ dằn
Khi
Những đợt sóng
Cuồn cuộn
Ồn ào
Biển ơi
Biển có biết
Tâm hồn ta
Cũng như biển
Lúc vui
Thì hát
Lúc buồn
Thì nước mắt rơi.


NGUYỄN TẤT HANH


Điềm Phùng Thị (*)


Khi đút hai tay vào túi - thật sâu (**)
Bà vẫn nghe những hạt bụi ly hương run rẩy
Những mẫu tự của bà
Thấm cái lạnh của miền cực Bắc
Tìm về địa chỉ cố hương
Dựng vẻ đẹp trầm tư mặc tưởng.

Từng giọt lệ cô đơn
Bà để "Vọng phu" âm thầm hóa thạch
Bởi vạn năm sau vẫn những kiếp người
Một "vách mẫy" cô đơn co quắp
"Trăn trở" không màn
Hay tín hiệu trôi vào góc chết
Mà phát đi sóng vỡ thời gian?

Lời an ủi vẫn trở về đáy túi
Mong manh giọt sương thao thiết trong bà
Biển cô tĩnh mò kim - đành vậy
Rút đáy hồn dâng một bông hoa.
                                                Năm 1998

------------------------------------------
(*) Điềm Phùng Thị sinh năm 1920 tại Huế - Bác sĩ, Nhà điêu khắc Việt Nam tại Pháp, Viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học Châu Âu về văn chương và nghệ thuật. Người được giới thiệu trong từ điển Larousse... về hội họa và điêu khắc "Nghệ thuật thế kỷ 20".
(**) "... Nếu tôi thất bại và chẳng ai chìa tay cho tôi, tôi sẽ đút tay vào túi thật sâu. Mặc kệ..." (Lời Điềm Phùng Thị)".
- Những từ trong ngoặc kép là tên tác phẩm điêu khắc của Điềm Phùng Thị.


Từ bản tin cuối ngày


Sau những câu thần chú gọi vừng rơi bên lề thế kỷ
Là bản ngã sủi tăm
Là cặp mắt hoang vu ngời lên im lặng
Là ý nghĩ âm thầm sau những tung hô

Từng yên ả hồn nhiên
Ngày đã ru bằng thấu hiểu lòng mình đằm mặn
Ngày đã ru song sóng lo âu
Đêm ác mộng gặp bao loài thủy quái
Mò mẫm tranh đua ăn lộc gian nguy
Vẳng trong ấy từng lời, từng lời hát...!

Rất có thể tôi đã vỡ ra từ lụi tàn của bao nhiêu mơ mộng
Để quên đi rền rĩ cáy cua cầu nguyện qua ngày
Để quên đi giai thoại rong rêu bơ phờ ngơ ngác.

Khi gắng gỏi vượt qua vô cảm ban mai
Tôi lắng nghe tiếng quả chuông đa mang vừa dìu tôi qua bến cam go
Và tôi biết mình vẫn nuôi cả hoài nghi cùng hy vọng
Khi đến với những gì còn lại trong mơ.
                                            Tháng 9 năm 1999


NGUYÊN QUÂN


Chiều ở Thiên An


Từng chiếc lá găm vào tôi tĩnh lặng
Mặc hồ nhiên xanh ngút gió ngàn
Sẩy tay vin cánh chiều đã mỏi
Để vốc về đầy bóng mắt ưu tư

Ném viên sỏi mơ hồ lên trí nhớ
Sóng lăn theo ngân vọng hoang vu
Đồi dốc trượt thêm nhánh đường bụi đỏ
Chiều trượt qua tôi lớp lớp thông già


Ký ức mùa ngâu


Đất trần truồng cuống rạ khô trơ
Ký ức cánh đồng qua mùa gặt hái
Đêm gối ta lên nức nở tiếng vạc sành
Gió cuối vụ hanh hao vùng ngực cháy

Đêm mải miết hành hương về vô vọng
Ngọn nến xanh tưởng niệm ngày sinh
Nhánh tay đan nửa vòng mê hoặc
Bóc trắng mặt người trong lớp kính bình minh

Như muối sương từ mùa thu tiền kiếp
Em ngấm vào ta cái nhớ dịu dàng
Để tháng bảy bây giờ đàn chim xưa thắc thỏm
Theo cơn mưa làm chiếc mống sang ngang


DƯƠNG THU HẰNG


Với Huế


Tôi ước phố mưa
Để nghe thấu "chiều nay xứ Huế"
Tôi mong có lệnh cấm thành
Để thấy Huế dịu trầm như tưởng tượng

Nếu bây giờ mất điện
Đại Nội sẽ cổ kính hơn
Chùa Thiên Mụ sẽ linh thiêng hơn
Dưới ánh trăng trầm mặc
Cầu Trường Tiền ngã vào lòng sông Hương                                
                               vẫn đêm ngày chờ đón
Đêm càng lộng gió
Và hữu duyên đâu cần rõ mặt cạn lời

(130/12-1999)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.

  • ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi

  • Xuân Hoàng - Nguyễn Xuân Thâm - Phạm Ngọc Cảnh - Mai Nguyên - Thế Dũng - Hải Vân - Hà Đức Hạnh

  • PHAN DUY NHÂNThơ xuân đọc với nam hà

  • Lê Huỳnh Lâm - Triệu Nguyên Phong - Nguyễn Hữu Hồng Minh - Trần Ninh Hồ - Phùng Tấn Đông - Trần Hữu Lục - Phạm Trường Thi - Nguyễn Man Kim - Tôn Nữ Thu Thủy - Trương Đăng Dung - Lê Huy Quang - Đoàn Mạnh Phương - Châu Thu Hà - Lê Ngã Lễ - Lâm Anh - Đỗ Văn Khoái - Nguyễn Khắc Thạch - Lê Tấn Quỳnh

  • Nguyễn Khoa Điềm - Thanh Thảo - Hoàng Vũ Thuật - Trần Quang Đoàn - Hải Bằng - Nguyễn Văn Dinh - Hải Kỳ - Nguyễn Khắc Thạch - Phạm Đức - Đỗ Văn Khoái - Quốc Minh - Ngô Xuân Hội

  • Mai Linh - Nguyễn Quang Lập - Tâm Hành - Mai Nam Thắng - Nguyễn Loan

  • Nguyễn Khoa Điềm - Tôn Nữ Hỷ Khương - Tiến Thảo - Hồ Đắc Thiếu Anh - Ngàn Thương - Lê Vĩnh Thái - Nguyễn Văn Quang - Tây Linh Phạm Xuân Phụng - Bảo Cường - Công Nam - Trần Hoàng Vũ Nguyên - Nguyễn Dũng - Kiều Trung Phương - Phan Như - Nguyễn Sông Bồ - Nguyễn Tuất - Mai Nam Thắng

  • Lam Hạnh - Tôn Phong - Nguyễn Quang Hà - Đinh Thị Như Thúy - Nguyễn Đông Nhật - Nguyễn Thiền Nghi - Từ Nguyễn - Nguyễn Hoa - Từ Hoài Tấn - Nguyễn Thị Anh Đào - Trần Tịnh Yên - Nguyễn Thánh Ngã - Huỳnh Thúy Kiều - Mai Văn Phấn - Kim Chuông - Tuệ Lam - Hồng Vinh - Nguyễn Minh Khiêm - Võ Mạnh Lập - Nguyễn Nguyên An - Cao Quảng Văn

  • Trần Xuân An - Nguyễn Đức Phú Thọ - Vũ Kim Liên - Đức Sơn

  • VĂN LỢIĐồng Hới trong anh

  • PHÙNG TẤN ĐÔNG Nghe đàn tranh ở Huế

  • TRẦN THỊ HUYỀN TRANGẢo ảnh

  • THANH THẢOHà Nội- nhìn về phía tôi