Vũ Dy - Nhất Lâm - Nguyễn Nhã Tiên - Trần Thị Tường Vy - Châu Thu Hà - Nguyễn Miên Thượng - Nguyễn Hàn Chung - Phan Lệ Dung - Vương Kiều
VŨ DY
Tháp mưa thời gian trôi
không đi hết tầng tầng gạch cũ
ngọn gió u hoài cổ tháp
những tường mưa đã lạnh lâu rồi
ta về sờ rêu tươi ngời trên ngực em mùa lễ hội
nét trinh nguyên rời rợi
nhìn khói núi loang mắt buồn linh tượng
vết chém tháng năm
đau nhói tim buồn
theo em về cúng lễ
vũ điệu Apsara ngả nghiêng mê đắm
từng vương triều đi qua
phục hưng và hủy diệt
giọng kèn Saranai lảnh lót chiều thung lũng
Bhadravarman! Sambhuvarman!*
thời gian bụi phủ
về ngồi nghe sầu ca của tháp
tiếng trống Ghinăng dội từ ký ức
mưa nắng cuồn cuộn trôi
em về đâu Chiêm nữ?
áo khăn bay
theo ngày hoang gạch vỡ
đi qua những chìm sâu vô tận
những bỏ hoang hoa cỏ mọc tơi bời
đi qua đi qua phù điêu mặt buồn đá lạnh
bệ thờ uy nghiêm và lăng mộ
chiều hôm hao khuyết trăng xanh
về bên tháp nghe
tàn phai xưa
một ngày
rơi
xuống
còn tươi roi rói sắc nâu hồng
........................................................
* Bhadravarman, vua Chămpa trị vì từ năm 381 đến 413, Sambhuvarman vua Chămpa trị vị từ
năm 577 đến 629.
NHẤT LÂM
Chỉ là cỏ
Nỗi buồn như ngọn gió
Chợt đến rồi đi qua
Mát dịu ngày nắng hạ
Lạnh lẽo đêm không nhà
Có khi là cơn bão
Lay chuyển cả đại dương
Cây đại ngàn nghiêng ngả
Nói chi cơn bão lòng
Nắng gió cỏ tàn tạ
Buồn xác xơ tháng hè
Nhưng rồi mưa xuân đến
Cỏ lại xanh miền quê
Buồn ơi từ đâu tới
Dù gió bão là chi
Là cỏ chỉ là cỏ
Buồn rồi vui chào mi.
NGUYỄN NHÃ TIÊN
Trưa trong vườn chùa Thiền Tôn ở Huế
Tôi hư hỏng nép hiên chùa sám hối
thân xác này
bụi bặm lắm người ơi
mỗi cây cỏ nơi đây dạy tôi niềm thánh hạnh
giũ bỏ rồi ra thanh khiết mọi tâm hồn
Trưa vườn chùa bình yên như vườn mẹ
bước chân về gặp quê quán tôi xưa
con chim hót trên hàng cây trổ hạnh
vang hưởng gió lay thanh sắc rợp hiên chùa
Vườn bao la bước bàn chân thơ dại
hàng hiên dài thăm thẳm ý trùng khơi
tia nắng rót
mênh mông
trời phương ngoại
ngói đỏ tịch ngôn rêu biếc ngỏ lời
Bờ bên kia, khắc đi rồi sẽ tới
bờ bên này, hoa từng nụ đang hương
xin cúi lạy đến từng viên gạch lót
lạy cọng cỏ xanh Phật vị dẫn đường
Nhặt của gió chút trưa trong vườn vắng
tiếng nghìn thu hun hút phía đồi xanh
nắng xuyên cành long lanh ngàn con mắt
chầm chậm bàn chân
êm ái bước thiền hành!
TRẦN THỊ TƯỜNG VY
Đường chân trời gãy khúc
Em đứng trên hiên lầu
bốn mùa chờ khuôn mặt thân thuộc
một nét vạch dài xa xôi
là đường chân trời nối liền mặt đất
đá núi cây rừng chưa từng che khuất
Trời đất mở bung tất cả cánh cửa sổ
không một góc nào tối tăm
Đường chân trời dựng lại cho em
những gì từ lâu đã ngã
Mắt em chào mặt trời âu yếm
mỗi ngày hẹn gặp đúng giờ
môi em hôn phớt mặt trăng rằm
tháng giêng tháng tám và tháng chạp
em trầm mình trong một đường thanh tú
vạch rõ nét cao quý nghìn tầm
ở mặt đất hay ở hư không
em không nhận biết
Có phải đường đo không gian thời cổ sử
hay sợi dây âu yếm của thần linh
con người bắt tay con người
nối liền và kéo dài con đường thánh thần bất tận
dười vùng trời mướt xanh
Em vẫn lẻ loi tựa góc lầu
nhìn đường chân trời bỗng dưng bị gãy khúc
nỗi buồn không trọn vẹn
ơi con đường an lành và hạnh phúc
ơi con đường mảnh mai nối dài
11/8/2015
CHÂU THU HÀ
Nhớ Lý Sơn
Cho H
Những lặng câm không nói thành lời
Trăng ở đảo cũng mặn mòi vị biển
nham thạch phun trào tự lòng núi lửa sâu
Đêm Lý Sơn
Tôi đánh rơi tim mình trong vết xước vòng tay ấy
giữa muôn trùng sóng xa
Núi khuất vào trăng
Đôi bờ môi run rẩy
người ấy
mang trái tim của biển
biển mênh mông tôi bé nhỏ vô cùng
người ấy mang linh hồn của đất
trao ngọt lành, ấm áp, bao dung
... cũng xin thêm một lần hy vọng
Như con tàu vượt sóng xa khơi
Những rắn rỏi lấp đầy mềm mại
Cuộc tình đâu dễ nguôi.
NGUYỄN MIÊN THƯỢNG
Mẹ già
Liêu xiêu ngọn gió tàn đông
Ác vàng le lói bên dòng tây hiên
Mẹ già tóc ngã mầu thiền
Sắc không bất chợt sợi nghiêng vô thường !
NGUYỄN HÀN CHUNG
Nói hộ
Tôi tin loài phù du bị hàm oan
bởi kiếp tồn sinh quá ngắn
nếu không chịu hiến mình bằng đường bay
ánh sáng
sao kịp thành thiêu thân
Diễn
Long lanh hóm hỉnh
đau đáu nỗi niềm
Em diễn vai nào
Mắt cũng tà môn
Em bán rao
Cái méo cái tròn cái thiện cái ác
Cái chính chuyên cái bội bạc cái bôi bác
Cái mặt nạ vận vào
Vẫn cười toe như trước
PHAN LỆ DUNG
Nhớ Ba
thắp ba nén hương lên bàn thờ
lòng con xốn xang
ngoài sân con bướm bay quanh
cánh hoa thạch thảo
Ba ở mô?
Ba ơi!
hay Ba đã về đợi con từ sáng
như ngày xưa chiều thứ bảy
Ba chờ con về từ Huế
tay xách chiếc cặp đen
con tung tăng trước ngõ
bây giờ
con mồ côi
đứa con gái cưng của Ba
tóc đã muối tiêu
vẫn còn côi cút.
Ba đi
bỏ hoang căn nhà
bỏ hoang tiếng gà gáy nghiêng ngoài trọt
còn đâu buổi chiều ngày con lên sáu tuổi
Ba dắt con ra đồng đuổi con cò trắng
khi mặt trời màu đỏ trên ngọn tre
còn đâu cái dáng gầy
mỗi sớm mai dìu con tới lớp
con vành khuyên gọi nắng trên cây.
nhớ Ba
con ra cánh đồng
nơi bờ đê màu trắng
ngó quanh
đồng làng mênh mông lắc lay ngọn cỏ
con tìm Ba...
Ba ơi
nắng vẫn vàng trên mái bếp nhà mình
chiều nay.
VƯƠNG KIỀU
Ước mơ của sói
Con sói bỗng nhiên mơ ước hiền lành
từ cơn đau buổi chiều săn đuổi
sói quay về hang
thù hận rừng sâu.
Người thợ săn chặt đứt dây cung
ném mũi tên qua bên bờ vực thẳm
cúi xuống ôm vết thương của người sơn nữ.
Đừng để nước mắt ai làm thành đôi đũa em cầm
đừng để máu ai biến thành bát cơm em ăn
nơi mùa xuân của em
đến từ cây đàn gieo giống
nơi hạnh phúc của em
đến từ đồng lúa trổ bông.
Con sói quay về hang
ước mơ làm người khai phá rừng hoang
người thợ săn về làng
thiết tha yêu mến đồng xanh
anh và em mãi mãi
nâng cung đàn
và hát.
(SH321/11-15)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.