Nguyễn Ngọc Phú - Nguyễn Văn Thanh - Đỗ Hàn - Phan Văn Chương - Tháng Năm - Nguyễn Ngọc Hưng - Phạm Xuân Phụng - Nguyễn Ngọc Hạnh - Nguyễn Loan - Triệu Nguyên Phong
"Tin mừng" của HS Dương Kính (Minh họa: Nhím)
NGUYỄN NGỌC PHÚ
Bầy gián của tôi
Xưa tôi là con Gián nhỏ
Chui xuống bốn góc giường dẫn đường lũ Kiến
Tha cơn mưa giăng màn về phía biển
Tôi giặt áo ngày kiềm
Ăn mục vào tháng nắng
Đôi râu xòe ăng-ten tìm dị ứng
Gián hổ phách lên màu áo cũ của tôi
Tôi hổ phách mình lên cánh tủ
Cất giữ nỗi buồn tôi ở đó
Đêm sường sượng: Cánh buồm sưng Lá Lách
Mối đùn lên đục rỗ chân trời
Tôi ném thia lia tuổi thơ vào ánh chớp
Con Cá chết không nhắm mắt
Con Gián chết lột xác
Đó là con Ve cuối cùng tôi nhìn bằng thính giác
Con Cà Cuống cuối cùng tôi nhìn bằng vị giác
Bầy Gián của tôi tức tưởi:
Đâu gò mả ông bà
Đâu hội làng đình đám
Đâu nút lạt tre pheo.
Rắc muối xuống mái nghèo
Trèo lên chạn bếp
Nhấm khói cay cay
Sa vào túi Nhện
Nơi ký sinh cuối cùng là tìm ra phía biển
Gián đánh hơi người
Tôi đánh hơi tôi…
--------------
* Ghi chú: Có loại Gián biển chuyên sống ký sinh trong kẽ nứt thuyền và đồ dùng người đi biển.
NGUYỄN VĂN THANH
Có phải em
Có phải em đó không
Người đàn bà liêu xiêu ngoài ngõ
Xõa tóc đếm thời gian
Mùa thu đi qua
Thả xuống chiếc lá vàng
Nửa cuộc đời
Chiến tranh-còn-mất
Khắc khoải-mỏi mòn-đợi chờ-xa cách
Khổ đau hằn lên...
Có phải em
Người đàn bà đếm ngược thời gian
Đợi chồng ngoài ngõ
Mái tóc hoa râm
Vương úa lá vàng
ĐỖ HÀN
Sao chiếu mệnh
Mỗi một Người sống trên trái đất
Có vì sao chiếu mệnh ở trên trời
Ồ, giả sử ta thành sao thật
Ai là Người làm bạn lúc sao rơi???
PHAN VĂN CHƯƠNG
Hơi thở trùng khơi
Sư tử cá hình chiến thuyền
phun ánh sáng về phía mặt trời
cây quả cảm tìm miền đất mới
trái tim không giống trái tim
khối óc không giống khối óc
thấy điều mắt chưa thấy
hành trình đói khát ngắc ngoải cái chết
chiến thuyền sư tử cá
ngày đi không hẹn
giông bão triều cường nước ngược
không la bàn trăng sao chạy trốn
đôi tay mái chèo
chân quẫy biển
tiếng nói chìm dần
chìm dần
không thể dấu mãi điều người khát tìm
hây hẩy giữa cuồng phong
đất níu người
tháng ngày tưởng không tồn tại
mù tăm trùng khơi hơi thở
sinh lực năm châu bốn biển
cuồn cuộn về casinô
thân thể rạo rực tế bào mới
rưng rức toà tháp.
THÁNG NĂM
Nén hương tiễn cha
Ba bến đậu chín mặt con
thuyền tình dằm mạn bò hòn vượt khơi
đất dày vô lượng lòng trời
nuôi mầm nuốt gió chơi vơi phận Bờm
Rơm cười được nắng giòn thơm
mặt trời của bố còn vờn lưng ny
chín mươi cội ốm đau gì
một cơn gió trái thiên di rụng buồn
Con sông mắc nợ ngọn nguồn
kiếp người mãi nợ dại khôn một thời
đoàn thuyền đè sóng ra khơi
hương đồng gió mới dòng đời thấp cao
Triệu lát cuốc úp trời sao
những bông hoa mặn nở vào đất nâu
trăng sương lật ải hong mầu
cầu vồng bông mẩy một đầu lưng cha
Sao đêm đậu đáy chén trà
mây thiền thư thái bóng cha trên tường
chân rơm mấy hạt thóc vương
sẻ,ri nhặt nhạnh nhớ thương phận nghèo
Nhà cao nênh nổi cánh bèo
đừng quên mưa nắng xanh rêu cổng làng...
NGUYỄN NGỌC HƯNG
Nhắc mình
Chỉ có thể là trái tim trời biển
Mới mênh mông ôm trọn thế gian này
Chỉ có thể vươn ngang tấm vũ trụ
Mới nhẹ nhàng buông bỏ mọi dở hay
Ai dám bảo mình chỉ yêu không ghét
Chỉ hiến dâng không hỏi nọ đòi kia
Bụi là bụi dẫu bụi vàng bụi ngọc
Liền lạc đến đâu cũng có trật trìa
Thôi thì vậy duyên cõi nào nấy độ
Ta không vào địa ngục đợi ai vào
Luôn có mặt trời bên kia bóng tối
Không gan xuống thấp mơ gì lên cao
Thôi thì vậy hãy đi từ không có
Rốt ráo dọn mình mới biết có không
Không khởi sinh những nụ mầm nho nhỏ
Sao thấu hồn hoa vĩnh viễn xuân hồng
Chỉ có thể hòa trong hoa trong cỏ
Để tự tìm cõi chân sắc chân hương
Mắt càn khôn hay trái tim chân ngã
Là quả thơm của tuyệt đỉnh khiêm nhường!
PHẠM XUÂN PHỤNG
Hổ phách
Thời tuổi trẻ, tôi như nhà địa chất
Dựng lều tìm kiếm quặng tình yêu
Theo sách vở, quặng nằm sâu trong đất
Nào hay quặng quý ở bên lều
Thời tuổi trẻ, tôi là nhà địa chất
Tìm được quặng rồi bỏ đó mà đi
Lại thông báo cho người sau khai thác
Thương mình có lúc quá ngu si!
Nhà địa chất giờ vẫn còn cuốc, xẻng
Còn xà beng, còn máy dò tìm
Còn sức khoẻ để đào trăm khối đất
Mắt còn tinh...
Biết quặng nổi hay chìm
Nhưng dư luận đã tước quyền khai thác
Trên sáu mươi đâu có sức đi tìm
Khai quặng để cho người trẻ khác
Về hưu rồi, xin cứ việc nằm im
Ngạc nhiên nhỉ! Trời cao không có mắt
Bao người có mắt cũng như không
Chớ tưởng cây già thường mục gốc
Cho hay
Hổ phách ẩn trong tùng!
NGUYỄN NGỌC HẠNH
Giấc mơ
bất chợt nhớ
chợt quên
bất chợt
ngày nằm mơ, đêm thức mong chờ
mơ được chết hiền lành như cỏ
mong là mơ bất chợt
đêm trôi
giấc mơ
về ngày mẹ sinh tôi
trong vườn lá chuối khô thô ráp
tiếng khóc chạm tiếng ve
khúc hát
trưa hè
sông dọc bờ quê
tiếng khóc lịm dần
rơi giữa cơn mê
rơi trong vườn bắp tẻ
rơi xuống trần gian một kiếp người
mẹ ẳm đầy vơi tiếng cười
chôn nhau tiếng khóc
cha gánh vải lên rừng
trĩu nặng bờ vai khổ nhọc
gánh cả đàn con thơ dại
đói nghèo
cha đi rồi
lều tranh một mái
mẹ một mình
sanh nở những niềm đau
giọt nước mắt đắng cay
ngày mẹ tôi trở dạ...
bất chợt nhớ ngày xưa đến lạ
mơ được một lần làm mẹ để sinh con
NGUYỄN LOAN
Đêm tâm linh
Ta đã chôn nụ hôn
vào hố sâu quên lãng
Đêm hóa vàng từ tiếng cầu kinh
Nỗi nhớ còn xanh
Sao nụ hôn thành khói?
Đêm dắt ra vào vùng thẳm tâm linh
Ai đập vỡ âm thanh
của gió núi mưa ngàn
Mà tiếng vọng u u... trầm buồn sương đục
Lời sám hối của tình yêu muộn màng buốt nhức
Rơi vào khoảng vắng tâm hồn như một nỗi cô đơn
Đêm
Thơ khoác áo nâu sờn
Cải trang người hành khất
Chìa tay xin chiếc lá làm bùa
Tái sinh lại nụ hôn từ cõi chết...
TRIỆU NGUYÊN PHONG
Phận đời
(Viết tại Trung tâm Ung bứu Bệnh viện TW Huế )
Trời quá ngái
đất lại thương
Nghẹn ngào búi tóc
rụng vương lệ tràn
Phận đời côi cút trần gian
Lập lòe sáng tối hắt ngang đèn chiều
Nhớ thời
tóc xõa lưng eo
Chừ ngồi chải gió buồn thiu thỉu buồn
Tóc thề nửa búi nửa buông
Cứ mường tượng nhớ
cứ thương tiếc hoài
Một thời
Tóc xõa ngang vai
Với người khắp nẽo đường dài ước mơ
Tóc xưa xanh mượt vai chờ
Mái tình vỗ sóng bến bờ tháng năm
Bây chừ
mọi thứ bằng không
Chiều hoang mang nắng
ngồi hong ngậm ngùi
Trước ta là cả một trời
Sau ta
trần thế nói lờ hư vô...
(SH309/11-14)
LTS: ...Với gần 30 công trình nghiên cứu, lý luận - phê bình văn chương có giá trị khoa học, GS. Hà Minh Đức đã trải qua một đời lao lực và giảng dạy để sống, yêu, say và viết... Và không chỉ có thế, GS.Hà Minh Đức còn là tác giả của 3 tập bút ký và 4 tập thơ giàu sự sống thật, giàu phẩm chất nhân văn và thi sĩ.Thơ Hà Minh Đức nồng ấm tình đời, tình người; nhưng với tình yêu, ẩn chứa bên trong buồn thương và đơn độc. Nỗi sầu xứ và những hoài niệm ngày xanh qua từng “giọt nghĩ trong đêm” của tác giả đã làm nên những dư âm buồn xa và những thao thức thơ chăng mắc lòng người.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu chùm thơ mới của tác giả.
Ngọc Tuyết - Ngô Thiên Thu - Tuệ Nguyên - Phạm Trường Thi - Lưu Xông Pha
Lâm Thị Mỹ Dạ - Lê Khánh Mai - Thu Nguyệt - Phan Thị Thanh Nhàn - Song Hảo - Nguyễn Thị Hồng - Trần Thị Trường - Phạm Thị Anh Nga - Thuý Nga - Châu Thu Hà - Phan Dịu Hiền - Dương Bích Hà - Lê Hoàng Anh - Ninh Giang Thu Cúc - Lê Minh Nguyệt - Nguyễn Đăng Chế
Sinh tại Ngọc Hà, Ba Đình, Hà NộiHội viên Hội Nhà văn Hà NộiCác tập thơ đã in: + Gửi con lời ru + Em đi ngang chiều gió + Cỏ mặt trờiCác giải thưởng: + Giải nhất cuộc thi thơ Trung tâm Văn hoá Q 3, TP.HCM + Giải ba cuộc thi thơ lục bát Tuần báo Văn nghệ
Trần Hoàng Phố - Vũ Thị Khương - Trần Hữu Lục - Lê Tấn Quỳnh - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Công Bình - Ngô Cang - Văn Lợi - Hà Huy Hoàng - Nguyễn Ngọc Hạnh
Thần Đinh uy nghiêm kiêu dũngThanh tao tạc dáng bên trờiĐế vương ngầm ghen thế núiVung roi phạt BÁT NGHĨA SƠN...
Họ và tên đầy đủ: Nguyễn Công Nam - Sinh 1953Bút danh: Công NamQuê: Hùng Tiến - Nam Đàn - Nghệ AnLà hội viên HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HẢI PHÒNGTác phẩm đã xuất bản: - TIẾNG VỌNG ĐÊM MƯA -Thơ (NXB Hải Phòng). - Giải thưởng cuộc thi thơ 2001 - 2003 của TCSH.
Trên bầu trời, một vì sao đỏ chóiRót ánh sáng vào tháng ngày hấp hốiMáu sao rơiGiọt lịm lưng thềmCây nến tim tôi bùng cháy...
Nguyễn Sĩ Cứ - Võ Thị Hồng Tơ - Hoàng Cầm - Đào Duy Anh - Hoàng Ly Thạch Thảo - Võ Văn Luyến - Phạm Duy Tân
Tên khai sinh: Vương Oanh NhiSinh năm 1947 tại Hải Phòng.Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam .Học viên khoá IV Trường viết văn Nguyễn DuTác phẩm chính: + Lối nhỏ (1988) + Bài mẫu giáo sáng thế(1993)
CHÂU NHONăm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với địch, 3 đồng chí hy sinh và trung đội trưởng bị thương nặng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đêm đó trung đội trưởng đã “nói chuyện với người yêu” trong cơn mê sảng. Xúc động trước tình cảm đó, tôi đã chuyển lời của người liệt sĩ thành bài thơ gửi về cho người yêu của anh ở hậu phương là cô Lê Thị Ánh, giáo viên cấp I ở một bản thuộc huyện Quế Phong, Nghệ An.
Hà Duyên - Nguyễn Thụy Kha - Nguyễn Thanh Văn - Nguyễn Văn Quang - Phạm Xuân Dũng - Lê Tuấn Lộc - Hồng Thị Vinh
Phạm Tấn Hầu - Lê Ngã Lễ - Lương Ngọc An - Lê Bá Thự - Phạm Thị Anh Nga - Đoàn Mạnh Phương - Trịnh Văn - Nhất Lâm - Hoàng Lê Ân.
NGUYỄN VĂN DINHCâu thơ BácThuở chăn đơn Bác đắp trong hangỐc suối, cơm ngô, nõn chuối ngànThơ Người vẫn viết cho ta đọc"Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Nguyễn Trọng Tạo - Diệp Minh Luyện - Nguyễn Việt Tư - Lê Viết Xuân - Trần Lan Vinh - Mai Văn Phấn
Trương Đăng Dung - Văn Công Hùng - Nguyễn Thụy Kha - Văn Công Toàn - Vĩnh Nguyên - Phan Tường Hy
Vũ Thị Huyền - Công Nam - Nguyễn Cảnh Tuấn - Đặng Hiển - Trần Đôn - Nguyễn Văn Hùng - Nguyễn Thị Thái
LTS: Binh đoàn Hương Giang thành lập ngày 17.4.1974, mang tên dòng sông thơ mộng. Sau khi giải phóng Huế, Binh đoàn tham gia chiến dịch thống nhất Tổ quốc, tiến thẳng vào Dinh Độc Lập ngày 30.4.1975. Sống lại những ngày tháng oai hùng đó, Nguyễn Trọng Bính, một sỹ quan của Binh đoàn đã viết trường ca “Nhật ký dòng sông” năm 2008. Tác phẩm này vừa được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam xếp loại xuất sắc trong đợt sơ kết Cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca về đề tài Chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân 2006 - 2008. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu cùng bạn đọc một trong số 11 chương của trường ca này.
CAO XUÂN THÁISinh năm: 1948 - Tại Vương quốc Thái LanVề nước năm 1960Quê quán: Hoa Lư - Ninh BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt NamPhó Chủ tịch Hội VHNT Hà Giang - Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
Nguyễn Đông Nhật - Chử Văn Long - Lê Hoàng Anh - Trịnh Lữ - Đào Trung Việt - Nguyễn Trần Thái - Nguyễn Thị Anh Đào - Nguyễn Loan - Nguyễn Văn Quang