Ảnh: Internet
VĂN LỢI Biển Tặng Hải Như thể là đùa nghịch với ngữ ngôn Là biển đấy nhưng không hề giận dỗi Là biển đấy nhưng không hề dữ dội Nghĩa như là biển ấy của tình yêu Biển của gió, của trăng và của sóng Biển của lời ca, biển của niềm mơ mộng Biển nghiêng trời lắng hết mọi trầm tư Biển của cuộc đời rất thực rất hư Em là biển nên không hề nông cạn Biển là em nên không hề đơn giản Biển vẫn là biển ấy của ngàn năm Và em là … một nét sóng xa xăm… Tháng 12-1982 TÔN NỮ THU THỦY Vườn xanh Dù sang mùa thu ngàn cây thưa Còn đây dải lụa tục, vườn xưa Làm sao con đành lòng đi khuất Ngoài kia sông Hương chờ tiễn đưa Làm sao vẽ được trong mùa gió Mái tóc lá sã đẫm hương nồng Bài hát ru à ơi của mẹ Vẫn sống theo giàn lá trầu không Lá nhãn âm thầm một bóng trưa Ai trèo cây khế tự ngàn xưa Để nay chiếc lá vàng rơi rụng Cùng nắng in tròn đốm ngủ mơ Đằm thắm bên em đất nội thành Cội hồng đang vẫy lá sầu đông Ở đây qua một thời thơ ấu Gốc đào gốc ổi là người quen Vẫn quạt cho vườn bằng bàn tay Bao nhiêu cây chuối hát ru ngày Còn ở trên cao bầy phượng múa Hay tàu cau lá nắng dàng đầy Dù sang mùa thu ngàn cây thưa Còn đây dải lụa của vườn xưa Chào em cây lá nhiều sức sống Gởi tháng năm xanh những mong chờ VÕ QUÊ Với làng Chuồn Chắc cánh chuồn bay giỡn sóng đầm xanh Nên tên làng khai sinh từ ấy Tên làng Chuồn nâng đời tôi lớn dậy Từng tháng ngày trong sáng thuở hoa niên Tiếng gõ chài thôi thúc gọi triều lên Hồi trống đình giục vầng trăng về xóm Chuông chùa ngân đồng làng thơm hương cốm Những câu thài thay tiếng mẹ ru nôi Hai cuộc chiến đi qua làng mất mát chia phôi Tôi xa làng nổi trôi bèo dạt Đọng giữa lòng bâng khuâng câu hát Giáp Đông là giáp Đông còi...(*) Nghĩ về làng thương quá làng ơi Còn đâu những anh Xức mệ Mè mệ Bướm... Đời cùng khổ kiếp người vay mượn Tiếng nợ đòi rứt thịt tuổi thơ tôi Nay làng đã giàu thêm tên đất tên người Giáp Giữa giáp Đông đã có thêm Đồng Miệu Lúa mọc quanh nhà nghe đằm men rượu Con gái con trai làng bơi giữa mùa trăng Mẹ làng Chuồn dẫu một đời gian truân Hai đầu gánh cá đầy oằn vai mẹ Hạnh phúc mẹ mẹ dành cho lớp trẻ Áo nối dài thành một nắng hai sương Ơi làng Chuồn ơi cánh võng yêu thương Đang chao vỗ trên hồn tôi nhịp sóng Mặt đầm xanh cánh chuồn bay sức sống Ngọn gió nồm xao xuyến những bờ tre (*) Giáp Đông là giáp Đông còi Con đam con rạm thì coi bằng vàng (Ca dao) PHẠM HỮU XƯỚNG Lê-nin và chiếc lá rừng Lê-nin ra khỏi lều cỏ Người đi bách bộ bên rừng Đàn sếu bay qua ào gió Những bông tuyết trắng bay bay Chợt Người xòe rộng bàn tay Chộp lên vai mình thích thú “Ô hay phải chú sim sẻ Ngỡ ta là một thân cây” Nhưng kìa đậu xuống trên vai Một chiếc lá rừng nho nhỏ Khẽ khàng như con chim non Người cười phá lên- ngắm nghía Lê-nin trở vào lều cỏ Người lại giở cuốn sách dày Trước mắt hồ Radơlip Nước bỗng xanh hơn bao ngày… 1982 (3/10-83) |
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi
NGUYỄN PHAN QUẾ MAI
Xuân Hoàng - Nguyễn Xuân Thâm - Phạm Ngọc Cảnh - Mai Nguyên - Thế Dũng - Hải Vân - Hà Đức Hạnh
PHAN DUY NHÂNThơ xuân đọc với nam hà
Lê Huỳnh Lâm - Triệu Nguyên Phong - Nguyễn Hữu Hồng Minh - Trần Ninh Hồ - Phùng Tấn Đông - Trần Hữu Lục - Phạm Trường Thi - Nguyễn Man Kim - Tôn Nữ Thu Thủy - Trương Đăng Dung - Lê Huy Quang - Đoàn Mạnh Phương - Châu Thu Hà - Lê Ngã Lễ - Lâm Anh - Đỗ Văn Khoái - Nguyễn Khắc Thạch - Lê Tấn Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm - Thanh Thảo - Hoàng Vũ Thuật - Trần Quang Đoàn - Hải Bằng - Nguyễn Văn Dinh - Hải Kỳ - Nguyễn Khắc Thạch - Phạm Đức - Đỗ Văn Khoái - Quốc Minh - Ngô Xuân Hội
Mai Linh - Nguyễn Quang Lập - Tâm Hành - Mai Nam Thắng - Nguyễn Loan
Nguyễn Khoa Điềm - Tôn Nữ Hỷ Khương - Tiến Thảo - Hồ Đắc Thiếu Anh - Ngàn Thương - Lê Vĩnh Thái - Nguyễn Văn Quang - Tây Linh Phạm Xuân Phụng - Bảo Cường - Công Nam - Trần Hoàng Vũ Nguyên - Nguyễn Dũng - Kiều Trung Phương - Phan Như - Nguyễn Sông Bồ - Nguyễn Tuất - Mai Nam Thắng
Lam Hạnh - Tôn Phong - Nguyễn Quang Hà - Đinh Thị Như Thúy - Nguyễn Đông Nhật - Nguyễn Thiền Nghi - Từ Nguyễn - Nguyễn Hoa - Từ Hoài Tấn - Nguyễn Thị Anh Đào - Trần Tịnh Yên - Nguyễn Thánh Ngã - Huỳnh Thúy Kiều - Mai Văn Phấn - Kim Chuông - Tuệ Lam - Hồng Vinh - Nguyễn Minh Khiêm - Võ Mạnh Lập - Nguyễn Nguyên An - Cao Quảng Văn
Trần Xuân An - Nguyễn Đức Phú Thọ - Vũ Kim Liên - Đức Sơn
VĂN LỢIĐồng Hới trong anh
PHÙNG TẤN ĐÔNG Nghe đàn tranh ở Huế
TRẦN THỊ HUYỀN TRANGẢo ảnh
THANH THẢOHà Nội- nhìn về phía tôi
NGỌC TUYẾTSói