Nguyễn Hồng Hạnh - Phan Lệ Dung - Hoàng Long - Hoàng Vân Khánh - Nguyên Quân - Bùi Mỹ Hồng - Đỗ Tấn Đạt - Nguyễn Nghĩa - Từ Sâm
"Vọng niệm mùa thu" - Tranh của HS Tô Trần Bích Thúy
NGUYỄN HỒNG HẠNH
Mùa...
Hơi nóng đã loãng đi sau những thở dài
nắng vẫn còn thơm trên những cánh đồng đang vàng đi trong mùa chín
ve thả những chùm tiếng
dài trong ngày mênh mông
những ngả đường thất lạc bằng lăng
chợt thèm như điên cơn mưa khi trời vào tối
mong mỏng nhớ trong ngày vội
y như mùa đang xanh
những phím chữ đã về đâu như con thuyền đã về đâu trong ngày bão
những phiến lá không hề mùa thu
những phiến lá như chuồn chuồn cánh mỏng
rơi trên mặt bàn nâu
mùa không xanh
nôn nao mùi cỏ cháy
chút thắc thỏm không đầy
rơi trong chiều rơi
những phím chữ đã về đâu như con thuyền đã về đâu trong ngày bão...?
PHAN LỆ DUNG
Lên chùa
lên chùa
vắng
cây xanh, cỏ xanh
bước chân tôi khe khẽ
sợ làm đau nhánh cỏ vô tình
cúi đầu lạy Phật cầu duyên
hồn nhiên như hoa cúc dại trong vườn
sao thấy lòng mình run rẩy
yêu người
tôi làm trái tim đau
cơn mưa màu tím
sao không giăng kín nổi bầu trời
như con chuồn chuồn buổi trưa bời gió
biết sẽ trở về với đôi cánh tan tành
vẫn khát bay
nên vẫn một mình lặn lội cõi vô minh
biết đâu là bờ
lên chùa
cố tập quên
cố học buông
cố neo thuyền vào bến
mong rồi sóng sẽ yên
...
ngoài vườn
chiếc lá khô rơi xao xác.
Chùm thơ haiku của HOÀNG LONG
Chảy tràn hư không
1. Những nốt đen/ đàn chim trên dây điện/ khúc nhạc đời không tên
2. Mảnh trăng trắng bạc/ in giữa trời xanh/ buổi sáng trong lành
3. Ngủ với chiếu chăn/ mà thương cảm/ nỗi lạnh vầng trăng
4. Mây xám về đây/ ngang qua đỉnh núi/ vướng mắc giữa ngàn cây
5. Sương mù dày/ những mái nhà/ vẫn ngủ trong mây
6. Sà xuống đồng khô/ bầy chim sẻ/ lẫn màu vào đất
7. Cánh chim vút bay/ trên tàn cây/ một cõi nắng đầy
8. Cổng chùa chiều/ hoa bạc đầu/ trên đá xanh rêu
9. Rặng núi màu xanh/ rừng cây đen thẫm/ cửa sổ là khung tranh
10. Một chén trà/ nuôi mộng cũ/ đã lắng hết dư ba
HOÀNG VÂN KHÁNH
Vì
Chiều đã vì đêm hoảng hốt
Bật tung trầm tích của ngày
Áng mây như màu tim vậy
Đỏ tràn túa ngập lòng tay
Én về rộng cánh đường bay
Vì xuân dâng tràn tiếng hót
Ôm đời vào hương mật ngọt
Xuân vẫy tay người ngất ngây
Cánh cung và mũi tên bay
Bắn ngược vào đêm quá khứ
Dâng hương lễ chùa giữa ngọ
Bỗng rơi vào cõi lạc huyền
Đam mê viên tràn mắt em
Sóng tình vì nhau rất trẻ
Bướm nghiêng từng đôi rất khẽ
Ai có vì đôi như ta?
NGUYÊN QUÂN
Khi tôi đến làng Hồng(*)
vốc nắm đất đen
trên những nền nhà hoang tàn đổ nát
ký ức sẫm buồn rơm rớm máu hồng tươi
nửa thế kỷ đã trôi đi còn rợn buồn thân phận
của ngôi làng bị mất tên trong ngọn lửa chiến tranh
khi tôi đến
buổi chiều tà làng còn huyễn vọng tiếng khóc than
thảng thốt bật ra trên những tượng người
vết đạn băm nhầy nhụa
chiều!
có lẽ còn dư vang điệu cười thơ dại
của những đứa bé
lăn tròn theo vết mòn viên bi đá hồn nhiên
hình bóng thiếu nữ
vĩnh hằng sau lớp thủy tinh trong suốt
manh áo hoa tinh tươm
sao phải nhuộm thêm màu máu ố đen
chiếc kẹp tóc chênh vênh bên thời gian giá lạnh
hình như vẫn còn mơ ước chuyến sang ngang
trên những nền nhà lở lói tang thương
tôi cúi thấp đầu thắp nén nhang niệm tưởng
hơn năm trăm linh hồn oan khuất trở về
quây quần bên làn khói trắng
bên những vuông ruộng vườn đơm mùa óng ả
chiều nay.
Trại sáng tác Quảng Ngãi 2014
.........................................................
* Tên gọi khác của làng Mỹ Lai
BÙI MỸ HỒNG
Thuyền và nước
Một mình đẩy con thuyền xuống nước
đi tìm giấc mơ
(giấc mơ lúc nào cũng có anh mà)
Bầu trời là của tôi
ngôi sao là của tôi
dòng nước là của tôi
ai đã đẩy tôi ra khỏi trái tim anh
để hoa hướng dương thôi hướng mặt trời
để nước biển chuyển vàng
để ốc đảo thành sa mạc
Lách con thuyền ra khỏi vòng vây của sóng
(sóng sau cứ cao hơn sóng trước)
Bỏ mặc tất cả theo tiếng nấc vỗ bờ
sà vào bãi cát ướt cho giấc mơ đỡ khát...
ĐỖ TẤN ĐẠT
Ngồi câu đời mình
Mùa đầy đặn tiếng chim xanh
Ta con trâu mộng gặm quanh bóng làng
Ngỡ lòng rằm tiết thu sang
Sao tăm nhái quẫy nhàu vàng lối trăng
Đường quê lạ tiếng chân quen
Lạ con đom đóm lạc ven mé đìa
Bủng bèo ao muống lia thia
Tuổi thơ như miếng mồi kia chìm rồi
Ta ngồi câu hạnh phúc trôi
Nhấc không nổi được tuổi đời đa đoan
Thôi về nhậu chớ trăng tan
Mồi không có - nhấm sương tàn cuộc đêm…
NGUYỄN NGHĨA
Cavin làng mẹ
Tặng người mẹ ở xã A đớt huyện A lưới
Làng Cavin núi dáng rồng
Vịn miền đất mẹ nghe lòng trùng khơi
Cha già đội ánh nắng trời
Gót trần sương gió mưa rơi phía rừng
Lời ca ngọn suối không dừng
Cội nguồn tuôn chảy trắng bừng giấc mơ
Cavin mắt mẹ ngóng chờ
Bóng con thơ dại xa mờ núi xanh.
TỪ SÂM
Viết trên giường bệnh
Tặng D.
Tuổi lên ba anh theo mẹ tung tăng
Tuổi bốn mươi
anh tập đi tập nói
Đường gập ghềnh xa
nhịp đời đã mỏi
Anh tựa vào em
Em dựa vào trống vắng
em đi tìm ngày - gặp ngày tắt nắng
em đi tìm đêm - gặp đêm chiêm bao
em đi tìm em - đĩa cạn dầu hao
ta nghiêng về nhau - thời gian rất mỏng
em vắt kiệt em
từng giọt vào anh
từ ngọn gió về
từ giọt mưa em
anh bước lại dấu chân mình
bốn mươi năm trước
Em theo anh về nơi bình yên
Có ngờ đâu em về miền biển động
(SH308/10-14)
Con đẻ của Khánh Hoà nhưng là con dâu của Huế. Lê Khánh Mai tốt nghiệp Thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn, hiện là Tổng biên tập tạp chí Nha Trang. Ngoài 4 tập thơ và 1 tiểu thuyết đã xuất bản, Lê Khánh Mai còn có nhiều thơ in trong các tuyển tập khác.Thơ Lê Khánh Mai lành mà gợi, róc rách giữa hai dòng truyền thống và hiện đại, dùng dằng giữa hai nẻo hiện thực với mộng mơ...
Sinh 1954 tại Nghi Lộc, Nghệ An. Hiện là công nhân ngành in ở Huế. Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế. Tác phẩm đã xuất bản:- Lá thời gian- Tinh khôi- Chàng ca sĩ bình minh
Sinh ngày 29 - 05 - 1978 tại HuếNguyên quán: Đồng Hới - Quảng BìnhĐại biểu Hội nghị những người viết văn trẻ Việt Nam 2 lần V và VIHiện đang công tác tại Khoa Ngữ văn - ĐHSP HuếTác phẩm: Thơ “Khi em mười chín”- NXB Thuận Hoá 1998.
Tưởng chừng như dòng sông trôi chật hương bòng, hương bưởitưởng chừng như con đường quen, quen tựbao giờhình như tôi đã có lần tiền kiếpđêm thiên hà vỡ một ánh sao rơi
Có gì mà nhớ quêGặp sông nhìn đăm đắmThương bên lở bên bồiLo quê mùa nước lớn
Bãi cát nhàu muối mặnHoang dại một loài hoaAi đặt tên Cúc biểnMàu tím đỏ mượt mà
Em về với chị, quê xưaQuê em quê chị, bây giờ quê ai?Cách xa hút tháng năm dàiSao ngày trở lại lạnh gai cả người.
(Nhân lời kể của một người chơi chim)
Chị tôiphận gáiheo may về lơ lửng sáo diều ngânSông Bồ mười hai bếnbến nào nước đụcbến nào trong...
...Không hề có chia ly, không cả lời giã từ, chỉ phương ấy trongvô vọng của em, chợt giây khắc này bừng chói...
Gương mặt thánh thiệnSáng và buồn
Sinh 1962 ở Hà Nội, tốt nghiệp Đại học hàng hải tại Liên Xô (1986) và đã từng là thuyền trưởng Hải quân. Ngô Tự Lập đã xuất bản hơn chục đầu sách bao gồm thơ, truyện, tiểu luận và dịch thuật.Anh là hội viên Hội Nhà văn Việt .
Sinh năm 1949 tại Bình Lục - Hà . Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội.Tác phẩm đã xuất bản: Dấu lặng - (Thơ) NXB Văn học 1976; Đêm thiếu nữ - (Thơ) NXB Văn học 1978. Ngoài ra Trần Lan Vinh còn có thơ in trong các tuyển tập khác.
Sinh 1946 tại Liên Minh, Vụ Bản, Nam ĐịnhCử nhân nghệ thuật - Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội - Hội viên Hội Mỹ Thuật Hà Nội.Tác phẩm: Trại Muộn (thơ) NXB Văn học 1995; Mảnh trời qua ô cửa - (thơ) NXB Văn học 1997.
Một tiếng thôi mà bao hàm cả cộng đồng dân tộc, cả xứ sở thân yêu với đồng lúa cánh cò, với núi non điệp trùng và rừng vàng biển bạc, những người vợ thương chồng tạo vóc dáng vọng phu.
(Gửi nhà thơ L.M.T)Em tìm trong lá một vầng trăng xaEm tìm trong cỏ bóng chiều vừa qua.
Đợi tắt mặt trờiĐêm không trăng ta lầm lũi bước sóng đôi với biểnXa khơi thăm thẳm màn đen
Tôi vấp ngã vào ban mai trong trẻoNước sông Hương xanh rười rượi tháng tưMưa đầu hạ, sấm chớp chừng vội vãCơn gió hoang lạ lẫm bước tôi về
LTS: Thanh Thảo tên thật là Hồ Thành Công, sinh 12 - 3 - 1946 tại Mộ Đức Quảng Ngãi. Tốt nghiệp khoa ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội 1969, vào bộ đội, làm báo ở Đài tiếng nói VN, đi chiến trường bộ cuối năm 1970. Là phóng viên chiến trường, ở Ban binh vận R. Sau giải phóng về trại sáng tác Quân khu 5, sau đó giải ngũ, về Hội Văn nghệ Nghĩa Bình và Hội Văn nghệ Quảng Ngãi. Hội viên Hội nhà văn, ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà văn Việt . Đã in hơn 10 tập thơ và trường ca. Hai lần nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt cho hai tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” và trường ca “Những ngọn sóng mặt trời”. Giờ vẫn làm thơ chơi và viết báo kiếm sống.
LTS: Trần Chấn Uy sinh năm 1957, tại Đức Thọ, Hà Tĩnh, hội viên Hội Nhà văn Việt . Anh là một nhà thơ trẻ đã có 5 tập thơ ra mắt bạn đọc. Trần Chấn Uy đi khắp nơi, say mê với cái mình đã chọn, diễn đạt nó với nhiều cung bậc. Tìm kiếm chân lý và cái đẹp để đưa vào thơ, với tấm lòng bao dung, nhân hậu, dưới góc độ nào, giọng thơ Trần Chấn Uy cũng chân chất, mộc mạc, nồng ấm. Nhà thơ Trần Chấn Uy hiện nay công tác ở Đài Truyền hình Khánh Hoà.