Nguyễn Thanh Hải - Đỗ Thượng Thế - Trần Kiêm Đoàn - Hữu Văn - Lê Minh Hải - Phạm Ánh - Phan Văn Chương
Tác phẩm “Phố Mùa Thu” của họa sĩ Nguyễn Mạnh Hùng
NGUYỄN THANH HẢI
Treo trung thu lên trí nhớ
Tôi xách trung thu của mình đi tìm chiếc lồng đèn ngày xưa
chiếc lồng đèn đã treo tôi vào tiếng trống đình quá khứ
những bụi tre gai buồn mọc trí nhớ lên trời
lâu rồi không còn nghe tiếng vót
em có bao giờ về nghe trung thu dỗ ngọt
lục giùm tôi tìm gốc gác chân quê
ngày tháng năm đâu có gì là trễ
ăn thua cuộc đời mình sớm muộn nhận ra
trăng bây giờ như những người già
đêm ra sân thèm tiếng đùa trẻ nhỏ
trong bình yên tiếng gì lung lay gió
như đứa nào gọi tên…
khi những sao trời bắt đầu thắp nến
là đêm manh mún nỗi buồn
mấy con đom đóm cũng treo những lồng đèn của mình lên trí nhớ
làng mạc bây giờ không còn ai cùng tôi đi xách trung thu…
ĐỖ THƯỢNG THẾ
Như là đăng đối
Sau tiếng gà bóng dơi dần nhạt loãng
Cánh vạc dịu nhỉu như chiếc bay
Trát về phía chân trời từng mảng mây ảo nét
Lửa lộng lẫy hành trình giai điệu mới
Ánh bếp mai tươi sốt tàn tro
Ở hai đầu giọt sương phập phồng phiêu phỏng
Đọt nụ cân bằng nách lá vừa đau.
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Em ngủ trên lá sen
Em nhẹ như sương khói
Mơ hồ như khói sương
Bờ bên kia vời vợi
Đi một đời chưa tới
Hoàng hôn đã đến rồi
Về thôi em về thôi
Tóc mây pha màu bạc
Trầm hương xưa bát ngát
Đã bay lạc thiên đường
Trùng dương về gối đất
Những mùa xuân xanh tươm
Những mùa hè nắng gắt
Thu sang rồi cũng nhạt
Đông tới lạnh rừng băng
Có ai còn không mất
Đã về và đã tới
Giọt nước nguồn sông xưa
Cội nhớ nguồn hò hẹn
Không đi mà chẳng đến
Em ngủ trên lá sen
HỮU VĂN
Quang gánh đời mẹ
Mẹ về qua ngõ hoàng hôn
Gánh chiều gió thổi trắng cồn lau bay
Mùa đi trên những ngón gầy
Gót chân vướng ngọn heo may lỡ làng
Bóng nghiêng mòn lối thời gian
Lệch đôi quang gánh sảy sàng nắng mưa
Tiếng rao vọng phía ngày xưa
Thúng tre đựng những thiếu thừa tuổi thơ
Mẹ ơi năm tháng hững hờ
Tóc buồn phủ dấu mịt mờ bể dâu
Chợ đời bán nỗi cơ cầu
Áo nâu nhàu vết dãi dầu phôi phai
Đường về sương rụng đầy vai
Mẹ đi qua những rộng dài đa đoan
Cuối trời khuyết mảnh trăng thon
Tựa bờ vai mẹ khuyết mòn bão giông…
LÊ MINH HẢI
Tìm về
Tôi tìm về với đồng chiêm
Chuồn chuồn dẫn lối tới miền ấu thơ
Lạc vào trong những giấc mơ
Thị tròn cổ tích vẫn chờ vàng thơm
Tôi tìm về với rạ rơm
Lăn vào ký ức để ôm lấy mình
Tôi ra đứng ở sân đình
Mái rêu thủ thỉ tâm tình chuyện quê
Tôi tìm ra phía bờ đê
Chợt xanh mươn mướt lời thề hội xuân
Tôi tìm ra phía dòng sông
Vẫy vùng vào thủa tồng ngồng trẻ trâu
Lần hồi tìm lại mo cau
Thấy thời gian gội trắng phau tóc bà
Tìm về cơm muối dưa cà
Để nghe chân chất mặn mà vị quê
Đầu trần đội bóng rặng tre
Con trâu dẫn lối tôi về tìm tôi...
PHẠM ÁNH
Nếu cỏ cây biết buồn
Nếu cỏ cây biết buồn
Xin thấu lòng con suối
Qua thác ghềnh đau nhói
Nước vẫn xuôi mỗi ngày
Nếu cỏ cây biết buồn
Xin nghe chiều lặng lẽ
Mưa ngập lòng khôn nguôi
Trong âm thầm gió xé
Nếu cỏ cây biết buồn
Xin thương người lam lũ
Dòng sông nghiêng bến cũ
Thương con đò trong tôi
Nếu cỏ cây biết buồn
Đất nghìn năm im lặng
Thời gian tuôn mưa nắng
Biết nói gì cô đơn
Nếu cỏ cây biết buồn
Như vầng trăng tròn khuyết
Cõi nhân sinh hư thực
Nghiêng bóng buồn vào tôi
PHAN VĂN CHƯƠNG
Nấm mộ người xin ăn
Nấm mộ người xin ăn như chiếc nón cời
nghiêng bên nào cũng rách bươm vạt nắng
nghiêng bên nào cũng dầm dề mưa
đắng
lăn lóc mấy hòn
nắm cơm bố thí
ai bảo cõi âm hồn yên nghỉ
chẳng phải người lạ xa
là cố tổ nội ta
ruột rà bên ngoại
lang thang khắp dãi biên thùy
nấm mộ người xin ăn như chiếc nón cời
loang lổ vòng đời xoáy hình trôn ốc
cổ tích bước ra
ca dao bước tới
nhập nhòe thực ảo bóng quê nghèo
nghênh ngang mồ cao mả đẹp
tòa cao ốc bằng giấy chẳng đáng đồng tiền
rơi
nghi ngút khói vênh vang lễ nghĩa
bên lề
nấm mộ người xin ăn.
(TCSH366/08-2019)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi